Chư Thiên Vạn Giới Chi Đại Cứu Vớt (Chư Thiên Vạn Giới Chi Đại Chửng Cứu)

Chương 44 : Viện thí (hạ)

Người đăng: duynguyen07

Ngày đăng: 23:34 26-11-2025

.
Quan chủ khảo Viện thí là Đề học quan, thông thường do người xuất thân Tiến sĩ trong Giám sát Ngự Sử, các bộ Thị lang đảm nhiệm. Nhiệm kỳ ba năm, thường do Hoàng đế khâm mệnh phái khiển đến các tỉnh. Viện thí chia làm hai trường thi, lần đầu tiên là chính thí cũng là trường thi quan trọng nhất, thi hai văn một thơ; lần thứ hai là phúc thí, thi một văn một thơ. Thi xong sẽ phát một "trường án", người đứng hạng nhất được gọi là Án thủ. Thi đậu Viện thí liền là Tú tài, chính thức được gọi là "Sinh viên". Phàm những sinh viên được tuyển chọn đều được đưa vào phủ châu huyện học. Có công danh Tú tài liền có thể gặp quan không quỳ, đồng thời được miễn trừ lao dịch, xem như là bước đầu thoát ly hàng ngũ bình dân bách tính. Theo quá trình kiểm tra diễn ra không lộn xộn, rất nhanh liền đến Lý Kiệt. Sau khi kiểm tra Lý Kiệt theo lệ thường, hắn liền được cho qua. Bước vào trường thi, có thể nhìn thấy một người mặc quan bào màu đỏ son đang đứng ở chính đường, hẳn là Đề học quan do triều đình phái đến. Đề học quan tương đương với trưởng quan cao nhất của Sở Giáo dục tỉnh hiện nay. Lý Kiệt dựa theo số báo danh tìm tới chính mình phòng thi. Vị trí không tệ, hoàn cảnh trong phòng thi xem như là một trong những phòng tốt nhất trong trường thi. Đây chính là đãi ngộ của tuyển thủ minh tinh, có bản lĩnh đi đến đâu cũng sẽ khiến người coi trọng mấy phần. Sau khi chỉnh lý sơ qua một phen, Lý Kiệt lần lượt lấy bút, mực, nghiên đài từ giỏ thi ra đặt lên bàn. Điểm khác biệt giữa Viện thí với Phủ thí, Huyện thí là bắt đầu thực hành chế độ hồ danh (che tên thí sinh). Giống như kỳ thi Đại học hiện nay, quan chấm thi không nhìn thấy họ tên thí sinh, đây là một trong những thủ đoạn ngăn chặn gian lận. Đến Hương thí, Hội thí sẽ càng nghiêm ngặt hơn, không chỉ hồ danh mà còn tiến hành đằng lục, tức là chép lại một bản bài thi đã được sĩ tử viết xong. Bài thi viết tay của cử tử là chân quyển, sau khi đằng lục sẽ được lưu trữ, các quan chấm thi chỉ có thể nhìn thấy bài thi đã được đằng lục. Sau khi tất cả thí sinh vào chỗ, tiếng trống "đông" vang lên, kỳ thi chính thức bắt đầu. Các nha dịch giơ đề thi đi lại khắp các hành lang trong phòng thi, để tiện cho tất cả thí sinh nhìn thấy tất cả các đề. Trường thi đầu tiên của Viện thí thi một đề Tứ thư, một đề Ngũ kinh và một bài phú thơ, không khác biệt nhiều so với Phủ thí trước đó. Lý Kiệt trước tiên chép đề bài vào giấy nháp. Đề thứ nhất, đề Tứ thư: "Thi" ba trăm, nói tóm lại, rằng: Tư vô tà. Đề bài này xuất từ tiết "Thi; ba trăm" trong "Luận ngữ". Khổng Tử dùng "Tư vô tà" để nói rõ đặc trưng nội dung của thơ ca, đại ý là "Thi kinh" ba trăm bài, dùng một câu để khái quát nó, chính là tư tưởng thuần chính không có tà niệm. Chu Hi trong "Tứ thư tập chú" khi nói về "Thi kinh" cũng nói: "Phàm lời thơ, cái thiện có thể cảm phát thiện tâm của người, cái ác có thể trừng phạt ý chí phóng túng của người, tác dụng của nó quy về khiến người đạt được tình tính của chính mà thôi." Ý của Chu Hi dịch ra chính là, "Thi kinh" ba trăm thiên, phần tốt có thể dẫn người hướng thiện, mà phần không tốt trong đó (ví dụ như phong cách Trịnh Vệ) thì có thể răn đe cái ác trong lòng người, cho nên tác dụng của "Thi kinh" chính là "khiến người đạt được tình tính của chính", không đi đường tà đạo. Suy nghĩ một lát sau, Lý Kiệt liền có điều tâm đắc, cầm bút phá đề. "Thánh nhân ước 'Thi' chi vi giáo, không ngoài khiến tâm đạt được chính mà thôi." Tức là Khổng Tử chủ trương dùng "Thi kinh" để giáo hóa, chủ yếu là vì tác dụng của "Thi kinh" có thể khiến lòng người đạt được sự chính trực. Bát Cổ văn phá đề của Minh triều không chỉ phải lý giải ý nghĩa nguyên văn kinh điển, đồng thời cũng không thể lệch khỏi chú thích của Chu Hi, phải tuân thủ nghiêm ngặt truyền chú. Sau đó, vài trăm chữ ngắn ngủi một mạch viết xong, rồi dựa theo chú thích của Chu Hi viết vào trong văn. "'Thi' chi hữu thiện, không những 'Thi' chi thiện dã, là khuyên chi mà quy vu vô tà dã." "'Thi' chi hữu ác, không những 'Thi' chi ác dã, là trừng chi mà quy vu vô tà dã." Lý Kiệt đã viết chú thích của Chu Hi bằng một cách khác trong bài văn, tức là nội dung trong "Thi kinh" không chỉ nói về thiện ác, mà là thông qua phần tốt để dẫn người hướng thiện, phần không tốt để răn đe kẻ ác và dẫn người hướng thiện, cuối cùng đạt đến cảnh giới tư vô tà. Đợi sau khi viết xong toàn văn, cảm giác như uống nước đá vào tiết trời đầu hạ, sảng khoái lâm ly. Nghỉ ngơi một lát, Lý Kiệt định bắt đầu viết đề thứ hai. Đề thứ hai là đề Ngũ kinh, kinh sách chính mà Lý Kiệt chọn là "Thượng thư". Trong kỳ thi Ngũ kinh của Minh triều, thí sinh có thể chọn một môn trong Ngũ kinh làm kinh sách chính của mình, tương đương với môn tự chọn hiện nay. Khi thi, đề Ngũ kinh chỉ cần viết đề trong kinh sách chính mình đã chọn là được. "Ngày tuyên ba đức, sớm đêm tuấn minh hữu gia; ngày nghiêm chi kính sáu đức, lượng thái hữu bang. Hấp thụ phu thi, chín đức hàm sự, tuấn nghệ tại quan. Bách liêu sư sư, bách công duy thời, phủ vu ngũ thần, thứ tích kỳ ngưng." Đoạn này xuất từ "Thượng thư · Cao Đào mô", toàn thiên ghi lại một cuộc nói chuyện giữa Cao Đào và Đại Vũ, chủ yếu thảo luận về việc lấy đức trị quốc. Cao Đào đã đưa ra "cửu đức" làm chuẩn tắc cơ bản về đạo đức của con người. Ý nghĩa của đề bài là, người mỗi ngày tuân theo ba đức, có thể làm Khanh đại phu; người mỗi ngày có thể tuân theo sáu đức, có thể được giao phó việc nước, đảm nhiệm chư hầu; nếu có thể tập trung chín loại phẩm đức lại và thực hành một cách toàn diện, khiến những người có phẩm đức này đều đảm nhiệm quan chức, thì các quan viên tại chức đều là những người có đức hạnh xuất chúng. Các đại phu học hỏi và noi theo lẫn nhau, các quan viên đều tận chức tận trách, nghiêm ngặt hành sự theo sự thay đổi của bốn mùa, thì đại nghiệp có thể thành công. Đề "Thượng thư" chủ yếu tham khảo chú giải của Thái Trầm. Chú thích của Thái Trầm trong tập chú là: "Tuấn, trị dã. Lượng diệc minh dã. Hữu gia, đại phu dã. Hữu bang, chư hầu dã. Tuấn minh lượng thái giai ngôn gia bang chính sự minh trị chi nghĩa." Nói một cách đơn giản, đó là cuộc nói chuyện giữa Đại Vũ và Cao Đào, đều đang thảo luận về đạo lý làm thế nào để trị quốc an dân. Nhiều đạo lý trong các điển tịch cổ đại vẫn còn áp dụng được cho đến ngày nay, là tài sản quý báu mà tổ tiên để lại. Người xưa cũng không phải cứng nhắc đến thế, ngay cả khi nói Trình Chu lý học đã gông cùm tư tưởng của con người thì cũng không hẳn là như vậy. Từ cuối thời Gia Tĩnh, văn phong của Bát Cổ văn đã bắt đầu thay đổi dần, không còn tuân thủ nghiêm ngặt truyền chú như trước nữa, không ít người cũng sẽ thêm vào đó một số ý nghĩ của mình. Lý Kiệt vừa hồi tưởng kinh văn vừa tĩnh lặng nhắm mắt dưỡng thần. Một lát sau, hắn cầm bút viết xuống. "Hiền giả miễn vu tiến đức nhi hữu dĩ trứ trị hiệu dữ bang gia, nhân quân quảng vu dụng hiền tư hữu thành trị hiệu vu thiên hạ." Tức là Cao Đào nói rõ với Đại Vũ rằng muốn lấy đức trị thiên hạ, quân chủ chỉ cần dùng nhiều hiền giả có đức hạnh để trị quốc, thì các loại sự tình đều sẽ thành công. Sau đó, Lý Kiệt tiếp tục đề bài, viết lý do tại sao phải làm như vậy. "Cái gia quốc thiên hạ hữu đại tiểu chi bất đồng, nhi hiền giả chi đức diệc hữu đa quả chi dị. Nhân quân chi dục trí trị, an đắc bất quảng dụng hiền chi đạo hồ!" Bởi vì quốc gia có lớn có nhỏ khác nhau, mà đức hạnh của người hiền cũng có nhiều ít khác nhau. Quân chủ muốn kiến công lập nghiệp, làm sao có thể không dùng nhiều người có đức hạnh đâu? Phần sau dựa theo truyền chú để làm rõ ý nghĩa đề bài. Từ khi nghĩ ra cách phá đề và tiếp đề, văn tư như suối tuôn, toàn văn một lần là xong. Đợi Lý Kiệt viết xong, hắn cảm thấy hơi đói, liền lấy đồ ăn đã chuẩn bị sẵn từ giỏ thi ra, có bánh ngàn lớp, bánh thịt và một ít điểm tâm. Từ khi Lý Kiệt tập võ, khẩu phần ăn của hắn đã vượt xa bạn bè cùng lứa, cho nên hắn chuẩn bị khá nhiều đồ ăn. Sau khi ăn xong thuần thục, Lý Kiệt liếc mắt nhìn đề phú thơ. Thơ ngũ ngôn bát vần không khó làm, suy nghĩ một lát sau liền vung bút viết xong. Sau khi viết xong, Lý Kiệt kiểm tra sơ qua bài văn trên giấy nháp, xem có lỗi sai, chỗ kiêng kỵ nào không, và nhuận sắc những chỗ nhỏ có thể sửa đổi. Sau đó, hắn chép bài văn vào bài thi. Chép xong, đối với Lý Kiệt mà nói, trường thi đầu tiên xem như đã kết thúc.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
.
 
Trở lên đầu trang