-
Quyển 2
Quyển 3
Quyển 4
Quyển 5
Quyển 6
Quyển 7
Quyển 8
Quyển 9
Quyển 10
Quyển 11
Quyển 12
Quyển 13
Quyển 14
Quyển 15
-
Tuỳ chỉnh
Font chữ
Palatino
Times
Arial
Georgia
Nhiều người chỉ có những chiếc dáo nhọn. Súng săn tốt thì nhan nhản. Chẳng ai bắn thạo bằng những tay săn trộm ở miền Bocage và những tay buôn lậu ở Loroux. Đó là những chiến binh kỳ lạ, ghê sợ và gan góc. Lệnh trưng binh ba mươi vạn người làm cho sáu trăm làng cùng báo động. Đồng thời các đám cháy nổ ran khắp nơi. Hai tỉnh Poitou và Anju bùng nổ cùng một ngày. Phải nói rằng một tiếng súng đầu tiên đã nổ từ ngày 8 tháng 7 năm 1792, một tháng trước ngày 10 tháng 8 trên đồng cỏ Kerbarder. Alain Redeler, ngày nay ít người biết đến, hồi ấy là tiền bối của La Rochejaquelein và Jean Chouan. Bọn bảo hoàng ép mọi người còn mạnh khỏe ra trận, nếu không nghe sẽ bị xử tử. Chúng trưng dụng lừa, ngựa, xe cộ, lương thực. Ngay tức khắc, Sapinaud có ba nghìn lính. Cathelineau một vạn, Stofflet hai vạn, và Charette thành chúa tể vùng Noirmoutier. Tử tước Scépeaux huy động miền Thượng Anjou, hiệp sĩ Dieuzie miền lưu vực giữa sông Vilaine và sông Loire, Tristan-l’Hermite miền dưới sông Main, anh thợ cạo Gaston ở thị trấn Guéméné và thầy tu Bernier những vùng còn lại. Muốn phát động những đám đông ấy chẳng cần gì nhiều chuyện. Người ta bỏ một con mèo đen to tướng vào trong tủ thánh thể trên bàn thờ của một vị linh mục đã được tín nhiệm, họ thường gọi là linh mục tuyên thệ, rồi giữa buổi lễ, cho con mèo đột ngột nhảy vọt ra. Dân quê kêu ầm lên: “Quỷ hiện!” Thế là có cả một tổng nổi loạn. Một luồng lửa từ những phòng xưng tội thổi ra. Để tấn công quân cách mạng và để vượt các hào hố, họ có sẵn cái gậy dài năm mét, dùng để đánh nhau và để chạy trốn. Trong những trận ác liệt nhất, khi họ đang tấn công những đội quân cộng hòa, nếu bắt gặp một cây thập ác hay một ngôi nhà thờ, tất cả đều quỳ xuống và cầu kinh dưới làn mưa đạn; lần hết chuỗi hạt, ai còn sống lại đứng dậy và lao vào đối phương. Những con người vĩ đại thay! Vừa chạy, họ vừa lắp đạn; đó là biệt tài của họ. Người ta muốn lừa dối dân quê thế nào cũng được; bọn thầy tu chỉ những thầy tu khác mà họ đã lấy dây, xiết chặt vào cổ cho đỏ bầm lên và nói: “Đó là những thầy tu chết chém đã sống lại.” Dân quê có những lúc thật là hiệp sĩ; họ sùng bái Fesque, một người lính cộng hòa cầm cờ thà chịu chém chứ không buông lá cờ. Họ cũng châm biếm; họ gọi các thầy tu bên cộng hòa lấy vợ là “các thầy tu không mũ calô thành những kẻ không quần chẽn”. Lúc đầu, họ cũng sợ đại bác; về sau, với cái gậy, họ xông tới các cỗ đại bác và chiếm lấy. Đầu tiên, họ chiếm được một khẩu đại bác bằng đồng đen và đặt tên là khẩu Truyền Đạo; rồi một khẩu khác từ thời chiến tranh tôn giáo, khắc huy hiệu của tể tướng Richelieu và vẽ hình Đức mẹ Đồng trinh; họ gọi là khẩu Marie Jeanne. Khi mất thị trấn Fontenay, họ mất cả súng Marie Jeanne và sáu trăm dân quê chết không nao núng quanh khẩu súng đó; sau đó, họ chiếm lại Fontenay, cốt để chiếm lại Marie Jeanne và họ kéo khẩu pháo về, dưới lá cờ bảo hoàng, phủ đầy hoa, bắt phụ nữ đi qua phải hôn khẩu súng. Nhưng có hai khẩu súng thì ít quá. Stofflet đã chiếm được Marie Jeanne; Cathelineau ghen tức liền xuất quân từ Pin-en-Mange tấn công Jallais và chiếm được một khẩu thứ ba, Forest đánh Saint-Florent và chiếm được khẩu thứ tư. Hai viên chỉ huy khác là Chouppes và Saint-Pol còn nghề hơn; họ đẽo thân cây giả thành hình đại bác, và bện bù nhìn làm pháo thủ, và với cỗ pháo đó họ vừa cười cợt một cách dũng cảm vừa đánh lui được quân cộng hòa ở Mareuil. Đó là thời oanh liệt. Về sau, khi Chalbos đánh tan La Marsonnière, thì dân quê đã để lại trên chiến trường ba mươi hai khẩu đại bác kiểu Anh. Nước Anh hồi đó xuất tiền cho bọn hoàng thân Pháp, và người ta “cấp vốn cho họ vì người ta đã nói với ông Pitt [139] rằng như vậy mới lịch sự”, theo như thư của Nantiat viết ngày 10 tháng 5 năm 1794. Trong một bản báo cáo ngày 31 tháng 3, Mellinet đã viết: “Tiếng hô của bọn phiến loạn là người Anh muôn năm!” Đám dân quê thường cướp bóc. Bọn sùng đạo này là lũ kẻ cướp. Quân man rợ có sẵn những thói hư. Sau này văn minh sẽ nắm lấy chỗ ấy để điều khiển họ. Puysaye viết trong tập II, trang 187: “Rất nhiều lần tôi bảo vệ thôn Plélan khỏi bị cướp phá”, và tới trang 434, ông viết là ông tránh không vào Montfort: “Tôi phải đi đường vòng để tránh cho nhà những người Jacobin khỏi bị cướp phá”. Họ cướp phá Cholet; họ vơ vét Challans. Sau khi thất bại ở Granville, họ cướp phá Ville-Dieu. Họ gọi những người dân theo cách mạng là “đám dân quèn Jacobin” [140] và tiêu diệt họ ác liệt hơn các tầng lớp khác. Họ thích đâm chém như binh lính và thích tàn sát như kẻ cướp. Họ thích thú nhất là giết những “đồ ngốc”, nghĩa là thị dân: họ gọi thế là “phá giới”. Ở Fontenay, một tên thầy tu trong bọn họ, linh mục Barbotin, đã chém một nhát kiếm giết chết một ông già. Ở Saint-Germain-sur-Ille [141], một tên chỉ huy chính gốc quý tộc, đã bắn một phát súng giết một thẩm phán của xã, và lột lấy chiếc đồng hồ. Ở Machecoul, họ đem giết từng loạt những người cộng hòa, cứ đều đặn mỗi ngày ba chục người liên tiếp, như thế trong năm tuần lễ, mỗi chuỗi ba mươi người gọi là “chuỗi tràng hạt”. Họ bắt mỗi xâu người đứng quay lưng vào một cái hố đào sẵn rồi bắn; những người bị bắn rơi xuống hố, nhiều khi còn sống họ cũng chôn lấp tất cả. Chúng ta đã thấy lại những phong tục man rợ ấy. Chủ tịch quận Joubert bị họ cưa tay. Họ bắt tù binh cộng hòa mang những chiếc cùm tay sắc cạnh. Họ thổi kèn săn rồi hạ sát từng loạt tù binh trên các quảng trường. Tướng Charette, ký tên: Bác ái, hiệp sĩ Charette,và cũng bắt chước Marat đội một chiếc mùi soa thắt nút phía trên lông mày, đã thiêu hủy thị trấn Pornic và tất cả những người ở trong nhà. Hồi ấy, Carrier [142] cũng thật đáng sợ. Khủng bố đáp lại khủng bố. Quân phiến loạn xứ Bretagne cũng hao hao giống quân phiến loạn Hy Lạp, cũng áo ngắn, súng đeo vai, xà cạp, quần rộng lùng thùng như váy xòe; giống hệt như bọn cướp vùng Klephte [143]. Henri De La Rochejaquelein mới hai mươi mốt tuổi đã đi theo bọn phiến loạn với một chiếc gậy và một cặp súng lục. Quân Vendée gồm có một trăm năm mươi tư binh đoàn. Họ hãm thành rất đúng cách; họ bao vây Bressuire ba ngày. Một ngày thứ sáu tuần lễ Thánh [144], một vạn dân quê đã dội vào thị trấn Sables những viên đạn đại bác đỏ rực. Có khi trong một ngày họ tiêu diệt mười bốn đồn của quân cộng hòa từ Montigné đến Courbeveilles. Ở Thouars, trên bờ thành cao, người ta nghe được câu đối thoại lý thú giữa La Rochejaquelein với một tên lính:
— Carl!
— Có.
— Ghé vai đây cho tao leo lên.
— Xin bước lên.
— Đưa súng đây.
— Có.
Rồi La Rochejaquelein nhảy vào trong thành, và không cần thang, họ chiếm được cái pháo đài mà Duguesclin đã vây hãm. Họ quý một viên đạn hơn một đồng tiền vàng. Họ khóc khi nhìn mất hút gác chuông của quê mình. Chạy trốn đối với họ rất giản đơn; chỉ cần chỉ huy hô: “Vứt guốc đi, giữ lấy súng!” Thiếu đạn, họ cầu kinh rồi xông vào cướp thuốc súng trong các thùng xe chở pháo của quân cộng hòa; về sau Elbée xin được đạn của bọn Anh. Khi đối phương tới gần, nếu có thương binh, họ đem giấu vào trong đồng lúa mì hay bụi đuôi chồn tốt um, đợi yên rồi họ trở lại mang về. Không có đồng phục. Quần áo tả tơi. Dân quê cùng quý tộc vớ được mảnh nào mặc mảnh ấy. Roger Mouliniers đội một chiếc khăn và mặc một chiếc áo lính kiểu Thổ Nhĩ Kỳ cướp được trong kho quần áo của rạp hát La Flèche; hiệp sĩ De Beauvilliers mặc áo biện lý và đội mũ phụ nữ trên chiếc mũ nồi bằng len. Tất cả đều mang đai và thắt lưng trắng; các cấp bậc được phân biệt bằng nơ thắt. Stofflet thắt nơ đỏ; La Rochejaquelein thắt nơ đen; Wimpfen có đôi phần theo phái Girondin, mà cũng ít khi ra khỏi xứ Normandie, mang băng ở cánh tay kiểu dân vùng Caen. Trong hàng ngũ có cả đàn bà: bà De Lescure về sau trở thành vợ La Rochejaquelein; Thérèse De Mollien, tình nhân của La Rouarie, người đã đốt danh sách các cha xứ; bà La Rochefoucauld đẹp, trẻ, kiếm cầm tay, đã tập hợp dân chúng dưới chân tháp lớn của lầu Puy-Rousseau, và Antoinette Adams, thường gọi là hiệp sĩ Adams rất anh dũng, cho nên đến khi y bị bắt, quân cộng hòa vì trọng nể đã cho y đứng để xử bắn. Thời ấy, con người trở nên cuồng bạo. Bà Lescure cho ngựa dẫm lên quân cộng hòa có lẽ bị thương đã ngã xuống; nhưng bà ta bảo họ đã chết. Đàn ông thỉnh thoảng còn phản bội, đàn bà thì không bao giờ. Cô Fleury ở Kịch viện Pháp bỏ La Rouarie theo Marat chỉ vì tình yêu. Chỉ huy thường khi cũng dốt nát như lính; lão De Sapinaud rất kém chính tả; hắn ta viết vần này lẫn sang vần kia. Tướng tá ghen ghét lẫn nhau; bọn chỉ huy thuộc phái Đồng Lầy kêu: “Đả đảo bọn mạn trên!” Kỵ binh ít và khó tổ chức. Puysaye viết: “Một người nào đấy có thể vui vẻ cho tôi hai đứa con, nhưng khi xin họ một con ngựa thì họ tỏ vẻ lạnh nhạt.” Sào, xiên hái, súng cũ, súng mới, mác đi săn, gậy đóng đanh bịt sắt là vũ khí của họ; vài người đeo thánh giá làm bằng hai ống xương người chết. Lâm trận, họ hét vang, xông ra từ khắp nơi, từ rừng, đồi nương nho, đường hẻm, họ đánh tỏa ra, nghĩa là theo thế gọng kìm, họ chém, giết loạn xạ rồi sau đó lại biến mất. Khi qua một xóm cộng hòa, họ hạ Cây Tự Do xuống đốt và nhảy múa vòng quanh lửa. Họ chuyên đi đêm. Kỷ luật quân Vendée: luôn luôn đột xuất. Họ vượt mười lăm dặm im hơi, lặng tiếng, không làm rạp một ngọn cỏ. Tối đến, sau khi các tướng lĩnh và hội đồng quân sự đã quyết định địa điểm hôm sau sẽ đánh úp quân cộng hòa, họ liền lắp đạn vào súng, lẩm nhẩm cầu kinh, rút guốc ra và cứ từng hàng dài, họ luồn qua rừng, chân đất, bước trên cỏ, rêu, không một tiếng động, không một lời nói, không một hơi thở.
Chẳng khác mèo đi trong đêm tối.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Lực lượng miền Vendée nổi loạn gồm khoảng năm mươi vạn đàn ông, đàn bà, trẻ con. Theo con số của Tuffin De La Rouarie thì có nửa triệu người chiến đấu.
Phái Liên Hiệp ủng hộ họ. Miền Gironde là đồng lõa. Tỉnh Lozère phái tới miền Bocage ba vạn người. Tám tỉnh liên kết lại, năm tỉnh ở xứ Bretagne, ba tỉnh ở Normandie. Evreux, kết nghĩa với Caen, có đại biểu trong hàng ngũ phiến loạn là tên đốc lý Chaumont và tên thân hào Gardenbas. Duzot, Gorsas và Barbaroux ở Caen, Brissot ở Moulin, Chassan ở Lyon, Rabaut SaintEtienne ở Nîme, Meillan và Duchâtel ở Bretagne, tất cả những cái miệng ấy cùng thổi vào đám lửa.
Loạn Vendée có hai phái; phái lớn hơn áp dụng lối đánh dựa vào rừng; phái nhỏ đánh lối du kích; đó là chỗ khác nhau giữa Charette và Jean Chouan. Phái nhỏ thì ngây thơ, phái lớn thì thối nát; phái nhỏ còn khá hơn. Charette được phong tước hầu, khâm sai quân thứ và được gắn đệ nhất đẳng huân chương Thánh Louis; Jean Chouan gần như hiệp sĩ giang hồ.
Về phần các ngài thủ lĩnh cao thượng như Bonchamps, Lescure, La Rochehaquelein, họ đã nhầm. Đội quân công giáo là một cố gắng điên rồ; tai họa nhất định xảy ra; có thế nào tưởng tượng nổi một đám dân quê cuồng loạn tấn công Paris, một số thôn xã liên kết bao vây điện Panthéon, một mớ câu hát, câu kinh sủa chung quanh bài Marseillaise, một đám người chân guốc nhảy xổ vào đội quân trí tuệ? Le Mans và Savenay [145] đã trừng phạt trò điên rồ ấy. Vượt qua sông Loire, bọn Vendée không thể làm nổi. Chúng có thể làm tất cả trừ việc sang sông này. Nội chiến không chinh phục đất đai. Vượt qua sông Rhin là tạo điều kiện cho César hoàn thành sự nghiệp và tăng uy tín cho Napoléon; vượt qua sông Loire là tiêu diệt La Rochejaquelein.
Loạn Vendée thật sự phải ở trên đất Vendée; ở đấy thì không thể đánh tan họ và hơn thế, không thể túm được họ. Ở quê họ, người Vendée là người buôn lậu, dân cày, linh mục, người săn bắn trộm, quân du kích, người chăn dê, người kéo chuông, dân quê, mật thám, sát nhân, người giữ kho nhà thờ, thú rừng.
La Rochejaquelein chỉ là Achille còn Jean Chouan là Protée [146].
Loạn Vendée đã dậy non, nhiều cuộc khởi nghĩa khác đã thành công, như ở Thụy Sĩ chẳng hạn. Nghĩa quân miền núi Thụy Sĩ khác với quân nổi loạn miền rừng Vendée là, hầu như bao giờ cũng thế, do ảnh hưởng không tránh khỏi của hoàn cảnh, người này thì chiến đấu vì một lý tưởng, kẻ kia vì những thành kiến. Người này thì bay bổng, kẻ kia thì bò sát đất. Một bên chiến đấu vì nhân loại, bên kia vì muốn cô độc. Một bên muốn tự do, bên kia muốn biệt lập; bên thì bảo vệ thôn xã, bên kia bảo vệ giáo khu. Hỡi nhân dân thôn xã! Đó là tiếng kêu của những vị anh hùng ở Morat [147]. Bên này đối phó với vực thẳm, bên kia với đồng lầy; một bên là người của thác ghềnh bọt sóng, bên kia là người của ao tù, sốt rét; một bên trên đầu là bầu trời xanh thẳm, bên kia trên đầu là bụi rậm; một bên ở đỉnh cao chót vót, bên kia nấp trong bóng tối.
Ở trên đỉnh cao hay ở dưới đất thấp, sự giáo dục thật không giống nhau.
Núi là thành lũy, rừng là nơi phục kích; ở núi khiến người ta phải dũng cảm, ở rừng phải nghĩ đến cạm bẫy. Thời cổ sơ đặt các chính thần ở trên đỉnh núi cao và các quái thần trong bụi rậm. Quái thần là giống man rợ, nửa người nửa thú. Những quốc gia tự do có các dãy núi Apennins, Alpes, Pyrénées, Olympe. Parnasse [148] là một ngọn núi. Mont-Blanc là trợ thủ khổng lồ của Guillaume Tell [149]; bên trong và bên trên những cuộc chiến đấu của thần linh chống lại đêm tối đầy rẫy trong thơ ca Ấn Độ, người ta thấy bóng dáng Himalaya. Nước Hy Lạp, nước Tây Ban Nha, nước Ý, nước Helvétie có bộ mặt là núi non; xứ Cimmérie, xứ Germanie hoặc xứ Bretagne có bộ mặt là rừng rú. Rừng rú là man rợ.
Hình thế đất đai dạy cho con người nhiều cách hoạt động. Địa lý hỗ trợ cho cuộc sống. Đứng trước những phong cách rùng rợn, người ta nảy ra ý muốn tha thứ cho con người và buộc tội tạo hóa; người ta cảm thấy một sự khiêu khích ngấm ngầm của thiên nhiên; sa mạc đôi khi làm hại đến lương tri, nhất là lương tri ít sáng suốt. Lương tri có thể vĩ đại, làm nên Socrate và Jésus; nó có thể thấp bé, tạo nên Atrée và Judas [150]. Lương tri hèn mọn chóng trở thành bò sát. Cái nghiệp của nó là lai vãn những nơi rừng rú âm u, gai góc, trong vũng lầy dưới bụi cây, thường bị những ám ảnh xấu xa thấm vào mà không hay. Những ảo tưởng, những ảo cảnh, những lầm lạc về thời gian và không gian ném con người vào một bối cảnh hoảng sợ, nửa thần bí, nửa thú vật khiến thời bình thì sinh ra mê tín, và thời loạn sinh ra bạo tàn. Những ảo giác cầm đuốc soi đường cho việc giết người. Có trạng thái hôn mê trong tên cướp. Thiên nhiên kỳ diệu một mặt làm sáng chói những bậc tài cao nhưng mặt khác làm mờ mắt những đầu óc man rợ. Khi con người còn dốt nát, khi sa mạc còn đầy ảo ảnh, thì bóng tối của cô đơn nhập với bóng tối của trí tuệ; từ đó trong con người mở ra những vực thẳm. Một vài mõm núi, đường hào, lùm cây, rừng thưa hoang dại nào đấy lúc chiều hôm đẩy con người tới những hành động điên rồ tàn ác. Hầu như có thể nói được rằng đất cũng có những nơi hiểm độc.
Ngọn đồi âm u giữa Baignon và Plélan đã chứng kiến biết bao điều bi thảm!
Những chân trời rộng lớn đưa tâm hồn lên tới những tư tưởng tổng quát; những chân trời bó hẹp đẻ ra những tư tưởng vụn vặt. Cái đó đôi khi làm cho những người có tấm lòng rộng lớn thành những đầu óc nhỏ nhen; ví dụ: Jean Chouan.
Những ý niệm lặt vặt thường không ưa những ý niệm chung bao quát; đó cũng chính là cuộc đấu tranh cho tiến bộ.
Xứ sở, tổ quốc, hai chữ đó tóm tắt cuộc chiến tranh ở Vendée; đó là sự tranh chấp giữa ý thức cục bộ với ý thức toàn bộ, dân quê chống lại những người yêu nước.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Từ lâu đời, xứ Bretagne luôn luôn nổi loạn. Suốt hai nghìn năm những lần nổi dậy ở xứ này đều hợp với lẽ phải; chỉ lần cuối cùng là sai lầm. Tuy nhiên, về căn bản, chống cách mạng hoặc chống chính thể quân chủ, chống đặc phái viên cộng hòa hoặc chống các tổng trấn là quận công và đại thần, chống tín phiếu cách mạng hoặc chống thuế muối thời quân chủ, dù người đi chiến đấu là nhân vật nào chăng nữa, là Nicolas Rapin, François De La Noue, là đại úy Pluviaut và phu nhân De La Garnache hoặc là Stofflet, Coquereau và Lechandelier De Pierreville, dưới thời ông Rohan chống vua hay ông Rochejaquelein phò vua, bao giờ xứ Bretagne cũng làm một thứ chiến tranh mang tính chất địa phương chống lại tinh thần trung ương tập quyền.
Cái xứ cổ lỗ ấy, là một loại ao hồ; nước tù không chịu chảy; gió thổi không gây thêm sinh khí, mà chỉ làm cho mặt nước nhăn nhó, giận dữ. Tỉnh Finisterre, là nơi tận cùng của đất Pháp, là nơi tận cùng của địa bàn đã trao cho con người, mà cũng là nơi mà cuộc tiến bước của các thế hệ dừng lại. Dừng lại! Đó là đại dương kêu lên với đất liền, và dã man kêu lên với văn minh. Tất cả những lần mà trung tâm là Paris phát ra một động lực, dù động lực ấy xuất phát từ nền quân chủ hay nền cộng hòa, dù theo hướng chuyên chế hay tự do, cũng đều là một điều mới mẻ, và xứ Bretagne lại xù lông ra. Hãy để chúng tôi yên. Người ta muốn gì nào? Rồi phái Đồng Lầy cầm xiên, miền Bocage cầm súng. Tất cả những mưu toan của chúng ta, những sáng kiến về pháp lý, về giáo dục, những cuốn bách khoa tự điển, những triết lý, những nhân tài, những vinh quang của chúng ta đều mắc cạn trước đất Houroux; tiếng chuông báo động ở Bazouges uy hiếp Cách mạng Pháp, bưng biền Faou nổi dậy chống lại những quảng trường của chúng ta đang sôi sục sóng gió cách mạng, và tiếng chuông của vùng Haut-des-Prés tuyên chiến với tháp Le Louvre.
Nạn điếc kinh khủng.
Cuộc nổi loạn Vendée là một sự hiểu lầm thảm khốc.
Một cuộc va chạm long trời lở đất, một cuộc tranh chấp giữa những người khổng lồ, một cuộc nổi dậy tràn lan, mục đích chỉ để lại trong lịch sử một tiếng, Vendée, vang dội và đen tối; tự sát vì bọn lưu vong, hy sinh cho sự ích kỷ, đem dũng cảm dâng cho hèn nhát; thiếu tính toán, thiếu chiến lược, thiếu chiến thuật, thiếu kế hoạch, thiếu mục đích, thiếu chỉ huy, thiếu trách nhiệm, tất cả chứng tỏ rằng đến độ nào đó, nghị lực có thể là bất lực; vừa hào hiệp vừa man rợ; vô nghĩa đến điên rồ, dựng lên một hàng rào bóng tối để ngăn cản ánh sáng; sự dốt nát tiến hành một cuộc kháng cự trường kỳ vừa ngu xuẩn vừa hùng tráng chống lại chân lý, công lý, pháp lý, lẽ phải, sự nghiệp giải phóng; nỗi kinh hoàng suốt tám năm trời, mười bốn tỉnh bị tàn phá, đồng ruộng mùa màng bị hủy hoại, làng mạc bị đốt cháy, thành thị tan hoang, nhà cửa bị cướp bóc, đàn bà và trẻ con bị giết, mồi lửa châm vào mái rạ, lưỡi gươm thọc vào trong tim nỗi hoảng sợ của văn minh, mối hy vọng của ngài Pitt; cuộc chiến tranh này là thế đấy, một mưu đồ thí nghịch vô ý thức
Tóm lại, sự kiện Vendée đã phục vụ cho tiến bộ, nó chứng minh điều cần thiết là phải chọc thủng tan tành cái bóng tối già cõi là xứ Bretagne và phải bắn xuyên thủng cái bụi rậm này bằng tất cả các mũi tên của ánh sáng cùng một lúc. Những tai họa có một phương thức tối tăm để dàn xếp mọi việc.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Mùa hè năm 1792, mưa rất nhiều; mùa hè năm 1793 lại nóng rất dữ. Vì nội chiến, ở xứ Bretagne có thể nói rằng không còn đường sá nữa. Tuy vậy, người ta vẫn đi lại nhờ những ngày hè nắng ráo. Đất khô là đường đi tốt nhất.
Một buổi chiều tháng bảy êm ả, khoảng một giờ sau lúc mặt trời lặn, một người cưỡi ngựa từ phía Avranches, dừng lại trước quán Croix-Branchard ở đầu lối vào thị trấn Pontorson, trước quán có tấm biển mấy năm gần đây người ta còn đọc được giòng chữ này: Rượu táo ngon tha hồ túy lúy. Suốt ngày trời nóng bức, nhưng lúc này đã bắt đầu có gió.
Người khách khoác một chiếc áo choàng rộng phủ kín mông ngựa. Ông ta đội chiếc mũ rộng vành có huy hiệu tam tài, điều đó không phải là không táo bạo ở cái xứ toàn là bụi rậm, huy hiệu là mục tiêu cho những phát súng. Ông ta mặc chiếu áo choàng thắt nút ở cổ, phanh ra để đôi cánh tay được cử động tự do; người ta có thể thoáng thấy chiếc thắt lưng tam tài và hai chuôi súng lục nhô ra ngoài. Một thanh gươm lủng lẳng thò ra khỏi chiếc áo choàng.
Nghe tiếng chân ngựa dừng lại, người chủ quán mở cửa xách đèn lồng kính đi ra. Đấy là lúc tranh tối tranh sáng; ngoài đường còn sáng nhưng trong nhà đã tối như bưng.
Lão chủ quán nhìn cái huy hiệu và hỏi:
— Công dân, ông nghỉ lại đây chứ?
— Không.
— Ông đi đâu bây giờ?
— Đến Dol.
— Nếu như vậy, phải trở lại Avranches hoặc Pontorson.
— Tại sao vậy?
— Vì đang đánh nhau ở Dol.
— À!
Người cưỡi ngựa kêu lên một tiếng, rồi tiếp luôn:
— Cho ngựa tôi một ít lúa mạch nhé.
Lão chủ quán đem cái máng đến, dốc hết một bao lúa mạch vào rồi tháo ngựa, con ngựa vừa ăn vừa thở phì phò.
Câu chuyện giữa hai người lại tiếp tục.
— Công dân, đây là ngựa trưng dụng có phải không?
— Không.
— Của ông à?
— Vâng, tôi đã mua và trả tiền.
— Ông ở đâu đến?
— Paris.
— Không đi thẳng một mạch được chứ gì?
— Không.
— Tôi biết mà, đường sá bị chặn hết. Nhưng xe trạm thì vẫn còn.
— Vâng. Cho đến Alençon. Tôi vừa mới rời xe trạm ở đó.
— Thế à! Rồi xem ít lâu nữa, trên nước Pháp chẳng còn xe nữa. Hết ngựa rồi. Một con ngựa ba trăm quan nay phải trả đến sáu trăm quan, còn rơm cỏ thì đắt quá giá. Trước kia tôi làm đội trạm, thế mà bây giờ đành làm chủ quán. Trên một nghìn ba trăm mười ba đội trạm thì hai trăm xin nghỉ việc. Công dân này, ông đã đi xe theo giá mới phải không?
— Giá mới từ ngày một tháng năm. Đúng thế.
— Đi xe lớn chở khách thì mỗi chặng mất hai hào, xe con hai bánh thì mất hào hai mà xe chở hàng thì năm xu. Có phải ông mua ngựa này ở Alençon không?
— Vâng.
— Hôm nay, ông đi suốt cả ngày ư?
— Từ tảng sáng.
— Và hôm qua?
— Và cả hôm kia nữa.
— Tôi hiểu rồi. Ông đi lối Domfront và Mortain.
— Và Avranches.
— Công dân, nói thật đấy, nên nghỉ lại đi. Ông mệt rồi, ngựa cũng mệt rồi.
— Ngựa có quyền mệt, chứ người thì không.
Lão chủ quán lại chăm chăm nhìn người khách. Một khuôn mặt đạo mạo, bình tĩnh và nghiêm khắc dưới vầng tóc xám.
Lão chủ quán đưa mắt nhìn quãng đường thăm thẳm, vắng teo và hỏi:
— Vậy ông đi một mình như thế à?
— Không. Tôi có hộ vệ.
— Đâu?
— Gươm và súng lục của tôi.
Lão chủ quán đi lấy một thùng nước và cho ngựa uống, rồi trong lúc con ngựa uống nước, lão lại ngắm nghía người khác và nghĩ thầm: “Không hề gì, ông này có vẻ thầy tu.” Người cưỡi ngựa hỏi tiếp:
— Lão bảo người ta đánh nhau ở Dol à?
— Vâng. Chắc lúc này bắt đầu rồi đấy.
— Ai đánh với ai thế?
— Một cựu quý tộc đánh nhau với một cựu quý tộc.
— Lão bảo sao?
— Tôi nói một cựu quý tộc theo cộng hòa đánh nhau với một cựu quý tộc theo vua.
— Nhưng làm gì còn vua nữa.
— Còn có vua con. Và điều lạ, là hai cựu quý tộc ấy lại là thân thuộc.
Người cưỡi ngựa chăm chú nghe. Lão chủ quán nói:
— Một người trẻ, một người già; chính là cháu đánh nhau với ông bác. Ông bác thì bảo hoàng, cháu thì yêu nước. Ông bác thì chỉ huy phe Trắng, cháu thì chỉ huy phe Xanh. Ái dà! Rồi họ chẳng tha nhau đâu. Một cuộc tử chiến.
— Tử chiến?
— Vâng, công dân ạ. Này, ông có muốn xem cách họ đối đáp với nhau không? Đây là một tờ tuyên cáo mà lão già cho dán khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp các cây và cả ngay trước cửa nhà tôi.
Lão chủ quán ghé đèn lại gần một tờ giấy vuông dán trên một cánh cửa và nhờ tờ tuyên cáo in chữ to nên khách ngồi trên mình ngựa có thể đọc được như sau:
Hầu tước Lantenac rất hân hạnh báo cho người cháu của ông ta là ngài tử tước Gauvain biết rằng nếu hầu tước may mắn bắt được ngài tử tước thì sẽ bắn ngay lập tức.
Lão chủ quán lại tiếp:
— Và đây là câu trả lời.
Lão quay lưng, áp đèn soi một tờ tuyên cáo khác, dán trên một cánh cửa bên cạnh đối diện với tờ kia. Người khách đọc:
Gauvain báo trước cho Lantenac là nếu bắt được y thì ông ta sẽ bắn y chết.
Lão chủ quán nói:
— Mới hôm qua, tờ tuyên cáo đầu vừa dán trước cửa nhà tôi thì sáng hôm nay lại đã có tờ thứ hai. Đối đáp tức thời.
Người khách lẩm bẩm như nói với mình những tiếng mà lão chủ quán nghe chẳng hiểu ra sao cả:
— Đúng, hơn là chiến tranh trong nước, đây là chiến tranh trong gia đình. Phải thế và thế là đúng. Những sự hồi xuân vĩ đại của các dân tộc phải trả giá như thế đấy.
Và người khách mắt chăm chú nhìn tờ tuyên cáo thứ hai đưa tay lên mũ chào.
Lão chủ quán lại tiếp tục:
— Công dân ạ, sự việc như thế này: trong các thành phố và các thị trấn lớn chúng ta theo cách mạng, còn thôn quê thì chống lại; có thể nói là ở thành phố người ta là dân nước Pháp và trong các làng mạc, người ta là dân xứ Bretagne. Chính là một chiến tranh giữa thị dân và dân quê. Họ bảo chúng ta là “bọn phệ” và chúng ta gọi họ là lũ “quê kệch”.
Bọn quý tộc và thầy tu đều theo họ.
— Không phải tất cả - Người cưỡi ngựa nói.
— Chính thế, công dân ạ, bởi vì ở đây chính là một tử tước đánh nhau với một hầu tước.
Và lão ta như nói thêm với riêng mình:
— Và đúng là mình đang nói chuyện với một giáo sĩ.
Người cưỡi ngựa hỏi tiếp:
— Thế thì ai thắng?
— Cho tới nay thì tử tước thắng. Nhưng mà cũng vất vả lắm. Lão già cũng ghê lắm, các vị ấy thuộc dòng họ Gauvain, quý tộc ở xứ này. Dòng họ ấy có hai ngành, ngành trên, trưởng ngành là hầu tước De Lantenac, ngành dưới, trưởng ngành là tử tước Gauvain. Hiện nay hai ngành đang đánh nhau. Cây cối thì chẳng thấy thế bao giờ [151] nhưng người thì có thế đấy. Hầu tước De Lantenac rất có uy thế ở xứ Bretagne này, đối với dân quê, đó là một ông hoàng. Hôm ông ta đổ bộ, đã có ngay tám nghìn người theo ông ta. Sau một tuần có ba trăm giáo khu nổi dậy. Nếu ông ta chiếm được một nơi ở ven biển thì quân Anh đã đổ bộ rồi. May thay, lại có ông Gauvain ở đó, mà lại là cháu ông ta, chuyện mới kỳ quái chứ. Ông Gauvain chỉ huy quân đội cộng hòa, và đã chặn đường ông bác lại. Rồi lão già Lantenac, khi vừa đến và tàn sát một toán tù binh, đã sai bắn hai người đàn bà trong đó có một chị có ba đứa con được tiểu đoàn Paris đỡ đầu. Việc này làm cho tiểu đoàn trở nên hung dữ. Đấy là tiểu đoàn Mũ Đỏ. Cái tiểu đoàn dân Paris ấy chẳng còn được nhiều người nữa nhưng họ đều là những tay đâm lê dữ dội. Họ đã sáp nhập vào đoàn quân của ông Gauvain. Không ai cự nổi họ. Họ đang muốn trả thù cho hai người đàn bà và giành lại mấy đứa trẻ. Người ta không hiểu lão già ấy đã làm gì với mấy đứa trẻ kia. Chính cái đó đã làm cho những người lính Paris phát điên lên. Ví thử mấy đứa trẻ không dính dấp vào cuộc chiến tranh này thì cục diện không đến nỗi như thế đâu. Tử tước là người tốt, trẻ tuổi và dũng cảm. Nhưng lão già là một hầu tước kinh khủng. Dân quê gọi cuộc chiến tranh này là cuộc chiến tranh của thánh Michel [152] chống với quỷ Belzébuth [153]. Ông hẳn biết thánh Michel là vị thần ở xứ này. Ngài có riêng một ngọn núi ở giữa biển phía trong vịnh. Ngài đến để đánh chết con quái vật và đem vùi xác nó dưới một ngọn núi khác ở gần đây gọi là núi Tombelaine.
— Vâng - Người cưỡi ngựa lẩm bẩm - Tumba Beleni nghĩa là cái mồ của Belebus, của Bel, của Bélial, của Belzébuth.
— Tôi thấy là ông am hiểu đấy.
Rồi lão chủ quán nói một mình:
— Nhất định rồi, ông ta biết tiếng La-tinh, đúng là một thầy tu.
Rồi lão chủ quán lại nói tiếp:
— A này, công dân ạ, đối với dân quê, thì chính là cuộc chiến tranh vừa nói đó lại tái diễn. Không cần phải nói, đối với họ thì thánh Michel là vị tướng bảo hoàng và con yêu quái Belzébuth là vị chỉ huy yêu nước kia; nhưng nếu có yêu quái thì chính đó là Lantenac và nếu có một vị thiên thần thì đó là Gauvain. À, ông không dùng gì sao?
— Tôi có bình nước với ít bánh. Nhưng lão chưa nói hết với tôi về tình hình ở thị trấn Dol.
— Như thế này. Ông Gauvain chỉ huy quân chinh phạt vùng bờ biển. Mục đích của Lantenac là làm cho khắp nơi nổi loạn, lấy vùng dưới xứ Bretagne dựa vào vùng dưới xứ Normandie, mở cửa cho Pitt và dùng hai vạn quân Anh cùng hai mươi vạn dân quê giúp sức cho đại quân xứ Vendée. Nhưng Gauvain đã chặn đứng kế hoạch đó. Ông ta giữ chặt bờ biển, dồn Lantenac vào nội địa và đẩy quân Anh ra ngoài khơi. Trước kia Lantenac đóng ở đây, nhưng Gauvain đã đánh bật lão ta đi, Gauvain đã chiếm lại Pont-au-Beau, đuổi lão ra khỏi Avranches, Villedieu, chặn không cho lão tới Granville. Gauvain điều quân dồn Lantenac vào khu rừng Fougères và bao vây lão ta ở đó. Tình hình rất tốt. Lão Lantenac đã khôn khéo mở ra một mũi; được tin lão đang tiến quân về phía Dol. Nếu lão chiếm được thị trấn Dol và đặt trên núi Dol một khẩu đội, vì lão cũng có trọng pháo, thì đấy là một chỗ ở bờ biển cho quân Anh đổ bộ và như thế là cả vùng này sẽ rơi vào tay lão. Vì thế không để lỡ một chút, ông Gauvain, một người cương nghị, tự tin, không đợi xin chỉ thị, liền nổi kèn, kéo pháo tập trung quân, tuốt gươm, và trong khi Lantenac xông tới Dol thì Gauvain nhảy bổ vào Lantenac. Hai trận tuyến trên đất Bretagne sắp đụng độ nhau ở Dol. Một cuộc chạm trán nảy lửa. Hiện giờ họ đã ở đấy.
— Từ đây đến Dol phải mất bao nhiêu thì giờ?
— Hành quân có xe pháo ít nhất cũng phải ba giờ; nhưng họ tới đó rồi.
Người khách lắng tai và bảo:
— Quả vậy, tôi nghe như có tiếng đại bác.
Lão chủ quán lắng nghe.
— Đúng rồi, công dân ạ. Và có cả những loại súng ngắn, nghe như xé vải. Ông nên nghỉ lại đây. Đến đấy thì chẳng gặp điều lành đâu.
— Tôi không thể nghỉ lại. Tôi phải đi.
— Không nên đi ông ạ. Tôi chẳng hiểu công việc của ông, nhưng nguy hiểm lắm, nếu như không phải vì người thân nhất trên đời…
— Ấy chính vì thế - Người cưỡi ngựa trả lời.
— Hình như là con trai của ông…
— Gần thế - Người cưỡi ngựa đáp.
Lão chủ quán ngẩng đầu lên và tự nhủ:
— Dầu sao cái ông công dân này vẫn có vẻ thầy tu.
Và sau một lúc suy nghĩ:
— Thầy tu, mà ông ta lại có con.
— Đóng lại cương ngựa cho tôi - Người khách bảo - Hết bao nhiêu?
Rồi ông ta trả tiền.
Lão chủ quán xếp cái chậu và thùng nước vào cạnh tường và trở lại bên người khách.
— Vì ông đã quyết định đi thì ông nên nghe tôi. Rõ ràng là ông định đi Saint-Malo. Thế thì chớ đi con đường qua Dol. Có hai đường, một đường qua Dol và một đường men theo biển. Chẳng đường nào ngắn hơn đâu. Con đường ven biển sẽ qua Saint-Georges de Brehaigne, Cherrueix và Hirel-le-Vivier. Ông đi giữa Dol ở phía nam và Cancale ở phía bắc. Đến đầu đường phố này ông sẽ thấy hai lối rẽ; sang trái là đi về Dol còn đi Saint-Georges de Brehaigne thì rẽ tay phải. Ông hãy nghe tôi, nếu ông đi qua Dol thì ông sẽ rơi vào giữa cuộc chém giết. Vì thế không nên rẽ về bên trái mà nên theo lối tay phải.
— Cảm ơn - Người khách nói.
Rồi ông ta thúc ngựa đi.
Trời đã tối hẳn, người cưỡi ngựa lao vào trong đêm mù mịt. Lão chủ quán nhìn theo đã mất hút.
Khi người khách đến đầu con đường rẽ, ông ta nghe từ xa tiếng lão chủ quán gọi to:
— Đi về bên phải!
Người cưỡi ngựa rẽ sang trái.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Các vị chức sắc nhà thờ vẫn gọi Dol là thành phố Tây Ban Nha trên đất Pháp, trong xứ Bretagne, nhưng Dol không phải là một thành phố mà chỉ là một đường phố. Một đường phố lớn, cũ kỹ kiểu gô-tích, hai bên đường rộng thênh thang san sát những dãy nhà có cột chẳng ra hàng lối gì, cái thụt vào, cái nhô ra. Còn lại là một mạng lưới những ngõ ngách nhỏ nối liền với đường lớn và đổ về đó như nhiều con suối đổ vào một dòng sông. Thành phố không có cửa ô, chẳng có tường thành, trống trải, điểm cao là núi Dol, bị bao vây thì không thể nào chống lại được; nhưng đường phố thì có khả năng chống giữ. Những ngôi nhà nhô lên, năm mươi năm trước người ta vẫn còn thấy, và hai dãy hiên giữa hàng cột lớn làm cho đường phố trở thành một vị trí chiến đấu hết sức kiên cố và có thể cầm cự được lâu dài. Bao nhiêu nhà là bấy nhiêu pháo đài; và phải chiếm từng nhà một. Cái chợ cũ xây gần giữa phố.
Lão chủ quán ở Croix-Branchard đã nói đúng, chính lúc lão kể chuyện là lúc phố Dol đang ngập trong một cuộc hỗn chiến điên cuồng. Một trận đọ súng ban đêm đột nhiên nổ ra trong thành phố giữa bọn Trắng tới đây ban sáng và phe Xanh thình lình kéo đến lúc chiều. Lực lượng hai bên chênh lệch nhau, phe Trắng có sáu nghìn quân, phe Xanh chỉ có nghìn rưỡi, nhưng kể về quyết tâm chiến đấu thì hai bên lại ngang nhau. Điều đáng chú ý là chính phía nghìn rưỡi quân đã tấn công phía sáu nghìn.
Một bên là đám ô hợp, một bên là quân đội chính quy. Một bên là sáu nghìn dân quê, trên áo da gắn hình trái tim Chúa, đội mũ tròn buộc những giải băng trắng, trên băng tay viết những châm ngôn Thiên Chúa giáo, thắt lưng đeo tràng hạt, trang bị bằng nhiều chàng nạng hơn là gươm, hoặc bằng súng ngắn, không có lưỡi lê, dùng dây thừng buộc pháo mà kéo, tổ chức kém, kỷ luật kém, trang bị kém, nhưng hết sức cuồng tín. Còn bên kia là một nghìn rưỡi binh sĩ đầu đội mũ chào mào có huy hiệu tam tài, áo thân trước rộng và ve áo to, dây đeo kiếm bắt chéo lại, gươm cong và có chuôi bằng đồng và súng trường cắm lưỡi lê dài, có hàng ngũ thuần thục, và cũng hung dữ, biết tuân lệnh như những người đã từng biết chỉ huy, cũng là lính tình nguyện, nhưng là tình nguyện vì tổ quốc, ngoài ra thì trang phục rách rưới, chân không; bên phía bảo hoàng là những dân quê phiêu lưu, bên phía cách mạng là những vị anh hùng chân đất; ở cả hai phe người chỉ huy là linh hồn của đơn vị, bên bảo hoàng là một lão già, bên cộng hòa là một chàng trai. Một bên là Lantenac, một bên là Gauvain.
Cách mạng có những thanh niên vĩ đại như Danton, Saint-Just và Robespierre và những thanh niên lý tưởng như Hoche và Marceau. Gauvain là một trong những người ấy.
Gauvain trạc ba mươi tuổi, vóc người lực lưỡng có cặp mắt nghiêm nghị của một nhà tiên tri và nụ cười của một em bé. Ông ta không hút thuốc, không uống rượu, không văng tục. Ra trận ông ta đem theo đồ trang điểm; ông ta giữ gìn rất cẩn thận móng tay, hàm răng, mái tóc đẹp màu đen nâu. Và những lúc dừng chân, ông ta tự tay giũ trước gió bộ quân phục chỉ huy của mình đã bị đạn bắn thủng lỗ chỗ và bụi bám trắng xóa. Luôn luôn hăng say lao vào đám hỗn chiến, ông ta chưa bao giờ bị thương. Tiếng nói của ông hết sức dịu dàng nhưng lâm thời lại có những giọng sang sảng đột ngột của người chỉ huy. Ông nêu gương nằm đất, dưới gió rét, dưới mưa, trong tuyết, mình cuộn tròn trong áo khoác, đầu gối lên một tảng đá. Một tâm hồn dũng cảm và trong trắng. Lúc tay vung gươm thì nét mặt ông ta thay đổi hẳn. Cái dáng điệu ẻo lả của ông khi lâm trận lại trở nên táo tợn.
Ngoài ra, Gauvain là nhà tư tưởng và triết gia, một bậc hiền nhân trẻ tuổi, trông thấy ông ta thì tưởng là một Alcibiade [154], nghe ông ta nói thì tưởng là Socrate, trong một cuộc đột biến lớn lao như cách mạng Pháp, chàng trai này tức khắc trở thành tướng lĩnh.
Đội quân do ông ta xây dựng, giống như một quân đoàn thời cổ La Mã, một kiểu binh đoàn nhỏ bé nhưng hoàn chỉnh. Có cả bộ binh và kỵ binh; có trinh sát, có lính đào hào, có công binh, có lính làm cầu: và quân đoàn thời cổ La Mã có máy bẫy đá, thì binh đoàn ông ta có trọng pháo. Ba khẩu pháo thắng vào xe làm cho đơn vị mạnh mà vẫn cơ động.
Lantenac cũng là một tướng lĩnh, nhưng ác hơn. Lão ta vừa suy tính kỹ hơn lại vừa táo tợn hơn. Lớp lão tướng thường điềm đạm hơn lớp thanh niên vì họ đã xa buổi bình minh, và họ táo tợn hơn vì đã gần cõi chết. Họ còn gì để mà mất? Rất ít thôi. Do đó mà Lantenac có những cuộc hành quân vừa táo bạo vừa khôn khéo. Nhưng rút cục, và hầu như bao giờ cũng thế, trong cuộc vật lộn dai dẳng giữa một lão già và một thanh niên, Gauvain vẫn chiếm ưu thế. Đó chỉ là hồng vận. Tất cả mọi diễm phúc, cho đến cả loại diễm phúc kinh khủng đều thuộc phần tuổi trẻ. Chiến thắng cũng ưa chuộng tuổi trẻ.
Lantenac giận Gauvain sôi lên, trước hết vì Gauvain thắng lão ta, sau nữa Gauvain lại là thân thuộc của lão. Sao nó lại đi theo bọn Jacobin? Cái thằng Gauvain kia! Cái thằng ranh con! Cháu thừa kế của lão, vì lão không có con, một thằng cháu họ cũng gần như cháu đích tôn! Ông bác ấy đã phải thốt lên: “Ta mà tóm được nó thì ta sẽ giết nó như giết một con chó!”
Vả lại, chính phủ cộng hòa có lý do để lo ngại về lão hầu tước De Lantenac này. Vừa mới đặt chân lên đất liền, lão đã làm rung chuyển khắp vùng. Tên tuổi lão truyền đi khắp Vendée phiến loạn như một làn thuốc súng, và tức khắc, Lantenac trở thành trung tâm. Trong một cuộc nổi loạn như kiểu này, mà tất cả ganh ghét nhau và mỗi người chiếm cứ riêng một bụi rậm, một đường hào, thì một kẻ bề trên xuất hiện có thể liên kết được bọn thủ lĩnh rời rạc, cá đối bằng đầu. Hầu hết bọn tướng lục lâm đều theo Lantenac, và dù ở gần hoặc xa cũng đều tuân lệnh răm rắp.
Chỉ có một người bỏ hắn, đó là Gavard, kẻ đầu tiên đã đi theo hắn. Tại sao vậy? Gavard là một kẻ tâm phúc. Gavard nắm được mọi điều bí mật và đã áp dụng những kế hoạch hành binh kiểu cũ của nội chiến thì Lantenac đến đã thay đổi cả. Ai lại đi kế thừa một người tâm phúc; đi thừa của La Rouarie: Lantenac không thèm xỏ chân vào. Gavard đã bỏ Lantenac để đến với Bonchamps [155].
Về mặt quân sự, Lantenac thuộc trường phái Frédéric II; lão ưa phối hợp lối đánh quy mô với lối đánh du kích. Lão không vừa lòng với một “khối ô hợp” như đội quân Thiên Chúa giáo và bảo hoàng, một đám đông chỉ đi đến chỗ bị tiêu diệt; lão cũng không ưa những toán quân tản mạn trong rừng, trong bụi, chỉ quấy rối được chứ không thể quật ngã kẻ địch. Lối đánh du kích không thể kết thúc hoặc kết thúc một cách thảm hại; lúc khởi sự thì tấn công cả một nền cộng hòa, và rút cuộc thì là cướp giật một chuyến xe ngựa. Lantenac không quan niệm cuộc chiến tranh ở xứ Bretagne này hoàn toàn là trận địa chiến ở đồng bằng như La Rochejaquelein và cũng không hoàn toàn là ở rừng rú như Jean Chouan; không thể theo kiểu Vendée cũng không thể theo kiểu Chouan được. Lão muốn một cuộc chiến tranh thực sự; sử dụng dân quê nhưng phải dựa vào quân đội. Lão muốn vừa có những toán dân quê vũ trang để dùng trong chiến lược, lại vừa có những trung đoàn trong chiến thuật. Lối phục kích và tấn công bất ngờ rất thích hợp với dân quê vũ trang, tán tụ nhanh chóng.
Nhưng những toán quân như thế lỏng lẻo lắm; như nước trong lòng bàn tay; lão muốn tạo nên một điểm vững chắc trong cuộc chiến tranh bồng bềnh và tản mạn này; lão muốn bổ sung cho đám quân, man rợ ở rừng núi một đội quân chính quy làm nòng cốt để huy động dân quê. Ý nghĩ thật thâm hiểm và ghê sợ; nếu lão thực hiện được thì loạn Vendée khó mà dẹp nổi.
Nhưng tìm đâu ra một đội quân chính quy? Tìm đâu ra binh lính? Tìm đâu ra những trung đoàn? Tìm đâu ra cả một quân đoàn có sẵn? Chỉ có ở nước Anh. Do đó, ý nghĩ như đinh đóng cột của Lantenac: làm sao đưa quân Anh đổ bộ vào. Thế là, ý thức phe phái đã sụp đổ; chiếc huy hiệu trắng đã che lấp cho chiếc áo đỏ [156]. Lantenac chỉ có một ý nghĩ: chiếm một điểm trên bờ biển và dâng cho Pitt. Vì vậy, khi thấy Dol bỏ ngỏ, lão nhảy xổ đến để chiếm Dol tức là chiếm ngọn núi Dol và từ đó chiếm bờ biển.
Địa điểm ấy thật khéo chọn. Đại bác đặt ở núi Dol sẽ quét sạch cả một vùng từ Fresnois đến Saint-Brelade, buộc hạm đội Cancale không dám tiến gần và biến cả một vùng bãi biển, từ Raz-sur-Couesnon đến Saint-Mêloir-des-Ondes, sẵn sàng chờ một cuộc đổ bộ.
Muốn cho mưu mô có tính chất quyết định đó thành công, Lantenac đem theo hơn sáu nghìn người, chọn những người lực lưỡng nhất và tất cả khẩu đội pháo gồm mười khẩu đại bác hạng nhỏ mười sáu ly, một khẩu đại bác chắp vá lại, cỡ tám ly và một khẩu loại trung đoàn bắn được bốn li-vrơ đạn. Lão dự định đặt một khẩu đội mạnh trên núi Dol theo nguyên tắc là mười khẩu trọng pháo bắn ra một nghìn phát đạn được việc hơn là năm khẩu bắn ra một nghìn năm trăm phát.
Thắng lợi tưởng như đã cầm chắc. Lão có sáu nghìn quân. Chỉ còn lo phía Avranches, quân của Gauvain có một nghìn rưỡi người và mặt Dinan có quân của Léchelle. Léchelle, tuy có hai vạn rưỡi quân thật nhưng lại ở cách xa những hai mươi dặm. Lantenac yên tâm, phía Léchelle có lực lượng lớn nhưng ở xa, còn về phía Gauvain, tuy ở gần nhưng quân số lại ít. Xin nói thêm rằng Léchelle là một anh ngu ngốc và sau này hắn đã nướng cả hai vạn rưỡi quân ở truông CroixBataille, và hắn đã tự tử vì cuộc bại trận đó.
Vậy nên Lantenac rất yên trí. Cuộc tiến quân vào Dol rất chớp nhoáng và ác liệt. Hầu tước De Lantenac đã khét tiếng là không biết thương ai. Cho nên khi vào Dol thì không một ai dám kháng cự. Dân chúng khiếp đảm ẩn trong nhà, chận kín cửa lại. Sáu nghìn quân Vendée chiếm đóng các phố, chúng lộn xộn theo lối dân quê, gần như họp chợ, không có hạ sĩ quan hậu cần, không được bố trí chỗ ở, bạ đâu hạ trại đó, nấu nướng ngay ngoài trời, tự do phân tán vào nhà thờ, vứt hết súng ống để lần tràng hạt. Lantenac cùng với vài sĩ quan pháo binh vội vã đi quan sát núi Dol và giao chức phó chỉ huy cho Gouge-le-Bruant.
Tên này đã để lại một dấu tích mờ nhạt trong lịch sử. Hắn có hai tên hiệu, một là Diệt-Xanh, vì những cuộc tàn sát của hắn đối với những người yêu nước, hai là Imânus bởi vì con người hắn có một cái gì ghê tởm không thể tả được. Chữ Imânus nói chệch đi từ một danh từ cổ vùng dưới xứ Normandie là Imânis để chỉ cái gì xấu xa nhất, loài người không thể có, mà lại có nghĩa rùng rợn hoang đường như là ma, quỷ, yêu tinh. Trong một bản thảo cổ đã thấy có viết chữ Imânus đó. Ngày nay, các cụ già ở vùng Bocage cũng không hiểu gì về Gouge-le-Bruant và Diệt-Xanh nghĩa là gì; nhưng các cụ có biết lỗ mỗ về Imânus. Cái tên Imânus còn rớt lại trong những chuyện mê tín ở địa phương. Người ta còn nhắc đến tên Imânus ở hai làng Trémorel và Plumaugat nơi mà tên Gouge-le-Bruant đã để lại vết chân dã man của hắn. Trong vụ loạn Vendée, những kẻ khác chỉ là man rợ nhưng Gouge-le-Bruant là loài tàn bạo. Đó là một thứ chúa mọi, trên người hắn ánh lên vẻ ghê tởm và gần như dị thường của một tâm hồn hoàn toàn không giống bất cứ một tâm hồn nào khác của con người. Trong chiến đấu, hắn dũng cảm một cách khốc liệt rồi dần dần trở nên bạo ngược. Một trái tim đầy rẫy những ngõ ngách quanh co, có khi rất mực trung thành, có khi rất mực cuồng bạo. Hắn có biết suy xét không? Có chứ, nhưng như kiểu rắn bò, theo đường ngoằn ngoèo. Cách suy xét của hắn là đi từ hùng dũng để tới giết người. Thật khó mà đoán được những quyết định của hắn từ đâu mà có, đôi khi những quyết định ấy vĩ đại đến trở thành quái gở. Hắn có thể làm tất cả những việc bất ngờ, khủng khiếp. Ở hắn có cả bạo ngược lẫn hào hùng.
Từ đó, hắn mang cái tên hiệu kỳ quái là Imânus.
Lão hầu tước De Lantenac rất tin cậy ở tính độc ác của hắn.
Độc ác là sở trường của Imânus; đúng thế. Nhưng về mặt chiến lược, chiến thuật thì hắn lại không sở trường bằng và khi phong hắn chức chỉ huy tác chiến, có thể lão hầu tước đã thất sách. Dù sao, lão hầu tước đã để Imânus thay lão xem xét mọi việc.
Gouge-le-Bruant, một tên hiếu chiến hơn một nhà quân sự, dùng để cắt cổ cả một bộ tộc hơn là giữ một thành phố. Tuy nhiên hắn cũng bố trí các đơn vị tiền tiêu.
Vừa chập tối, sau khi lão hầu tước De Lantenac đã quan sát địa điểm dự định đặt khẩu đại pháo và trở về Dol, thì bất thình lình lão nghe tiếng đại bác nổ. Lão chú ý nhìn. Một đám khói đỏ rực bốc lên ở phố lớn. Ở đó đã xảy ra một trận đánh bất ngờ, một trận đột kích, một cuộc tấn công; hai bên đang đánh nhau trong thành phố.
Mặc dầu vốn là người ít hay ngạc nhiên, lúc bấy giờ lão cũng sửng sốt. Lão có tính đến nông nỗi này đâu. Có thể là ai? Nhất định không phải Gauvain. Không thể lấy một mà chọi với bốn được. Hay là Léchelle? Nhưng hành quân chớp nhoáng cách nào! Chưa hẳn là Léchelle mà không thể là Gauvain được.
Lantenac thúc ngựa; trên đường hắn gặp dân phố chạy trốn; hắn hỏi thăm, họ đang hết sức hoảng sợ. Họ kêu lên: Bọn Xanh! Bọn Xanh! Và khi hắn về đến nơi, thì tình thế đã trở nên bất lợi.
Sự việc đã xảy ra thế này.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện