Liên Xô 1991 (Tô Liên 1991)
Chương 47 : Trò Lừa Đỏ Thủy Ngân (Phần Hai)
Người đăng: chien92_tn
Ngày đăng: 15:10 19-06-2025
.
Chương 47: Trò Lừa Đỏ Thủy Ngân (Phần Hai)
Vũ khí hạt nhân “đỏ thủy ngân” vốn được tôn vinh là “thần khí” của Chiến tranh Lạnh đã luôn là một bí ẩn khó hiểu, đến mức vào năm 2015, một tổ chức cực đoan theo chủ nghĩa nguyên giáo cố gắng thiết lập chế độ giáo quyền ở Trung Đông đã xem nó như một “vật thiêng” để tấn công các quốc gia phương Tây.
Đỏ thủy ngân là tên gọi của một loại bom nhiệt hạch chiến thuật có hóa lượng thu nhỏ: nó dùng **kẽm antimon** làm nguồn neutron, so với nguồn neutron thông thường trong bom nguyên tử thì thể tích đã giảm đi rất nhiều, và vì phản ứng nhiệt hạch không chịu hạn chế bởi khối lượng tới hạn, nên toàn bộ quả bom có kích thước rất nhỏ, trọng lượng rất nhẹ. Tuy kích thước nhỏ bé, nhưng sức công phá của một quả bom đỏ thủy ngân thu nhỏ có thể đạt đến mức không thể tin nổi, đủ giết hàng chục triệu người chỉ trong một vùng tác chiến.
Vũ khí hạt nhân thu nhỏ đồng nghĩa với việc có thể nhét gọn vào một chiếc cặp công văn, mang tới bất cứ nơi công cộng nào bạn muốn — sân vận động, sân bay, khách sạn… nếu có thể, thậm chí còn đưa vào được Lầu Năm Góc và Nhà Trắng. Hãy tưởng tượng Nhà Trắng và Lầu Năm Góc – hai biểu tượng quyền lực nước Mỹ – cùng bị tấn công hạt nhân, ngay lập tức cả nền chính trị quốc gia sẽ bị tê liệt.
Mặc dù người Liên Xô mê mải với vũ khí thần thoại này, và theo thông tin tình báo Mỹ thì Liên Xô có thể đã phát triển được vũ khí thay đổi cục diện hai cực, nhưng Yanayev hiểu rõ rằng bom đỏ thủy ngân chỉ dừng ở giai đoạn lý thuyết, và khi không thể vượt qua những nút thắt kỹ thuật thì dự án này đã bị hoãn vô thời hạn.
Và bây giờ, Liên Xô sẵn sàng dùng vũ khí không tồn tại này để hù dọa phương Tây.
Yanayev cũng rất rõ ảnh hưởng của chiến tranh tâm lý — như chính sách “Đệ nhị Không gian” mà chính quyền Reagan đề xuất, vốn không hề tồn tại, nhưng đã khiến Liên Xô lao đao trong cuộc chạy đua vũ trang không gian. Ngay khi lên nắm quyền, Yanayev đã hủy bỏ tất cả kế hoạch đối phó với Hiệp định Phòng thủ Chiến lược và gọi tất cả những dự án ấy “ngu ngốc như Đường Hầm Ngôi Sao của người Mỹ.”
“Đông và Tây đối đầu suốt hàng chục năm, cùng xâm nhập tình báo lẫn nhau, sinh ra đủ loại điệp viên — sản phẩm của Chiến tranh Lạnh,” Ogarkov tóm tắt chiến lược của mình cho Yanayev nghe: “Người Mỹ muốn thu thập tình báo của chúng ta, rất nhiều dựa vào mạng lưới này. Lấy ví dụ, trong công nghệ động cơ tên lửa đẩy, lâu nay ta muốn biết bí quyết từ Mỹ. Chỉ cần Mỹ biết ta nhắm vào điểm nào, họ sẽ phân tích được đâu là nút thắt không thể bứt phá, rồi họ suy ra dự án nào của ta vẫn chưa hoàn thiện, cái gì chỉ là chiêu đánh lạc hướng.”
“Ý ông là ta tung cho Mỹ thông tin về antimon\*\*, thứ có thể ngay cả CIA cũng không có, để họ chú ý?” Yanayev còn băn khoăn. “Như vậy chẳng khác gì thừa nhận ta chưa hoàn thiện kỹ thuật phản ứng antimon\*\*?”
“Chẳng thể để họ nhận ra ngay,” Ogarkov giải thích, “phải khởi từ áp suất và nhiệt độ — bên cạnh nguồn neutron antimon\*\*, áp suất và nhiệt độ cao cũng quan trọng. Cách này sẽ khiến Mỹ tin chắc chúng ta đang phát triển antimon\*\* cho bom cặp công văn.”
“Khi họ gần đoán ra thực chất ta chỉ muốn công nghệ antimon\*\*, lập tức ta sẽ cắt đứt mọi kênh thâm nhập tình báo và đặt KGB vào ‘trạng thái im lặng vô tuyến’,” Ogarkov, chuyên gia tâm lý tình báo, khéo léo lột tả tâm lý cấp cao CIA: “Dừng thâm nhập tình báo tức là ta không cần công nghệ bí mật của họ nữa — họ sẽ nghĩ ta đã tiến bộ vượt bậc, rồi ta tiếp tục tung ra thông tin thật-giả lẫn lộn, khiến họ càng nghi hoặc.”
Ogarkov càng nói càng say sưa, như trở về thời kỳ ông hoạch định sách lược cho Đoàn Chủ tịch Xô Viết. Trước khi ông mở lời, Yanayev đã cho đuổi hết người trong phòng — bí mật chỉ giữa hai ông.
“Đồng thời, chính phủ Liên Xô phải càng tỏ thái độ cứng rắn, để Mỹ tin rằng chúng ta có thể phát động Thế chiến thứ ba bất cứ lúc nào. Như vậy, mục tiêu lừa dối của bom đỏ thủy ngân — làm cho họ khiếp đảm dù vũ khí không tồn tại — sẽ đạt được. Khi Mỹ sợ hãi không dám manh động, chúng ta sẽ có thêm không gian và thời gian để phục hồi lực lượng.”
“Chỉ tiếc chiêu thức dù tuyệt vời đến mấy cũng chỉ là cách cuối cùng.” Ogarkov tháo kính, chậm rãi lau, nhớ tới lúc Brezhnev bán dầu thô ào ạt khiến kinh tế Liên Xô méo mó, ông không khỏi lắc đầu bất lực.
“Mấy việc này là bất đắc dĩ,” Yanayev thở dài, “đất nước ta đang đối mặt khủng hoảng kinh tế nan giải, thể chế trì trệ, chấn hạ không nổi. Chính phủ chỉ còn cách xoay đủ chiêu bù thời gian.” Nghĩ đến tương lai Liên Xô trông chờ vào xuất khẩu dầu khí và vũ khí, Yanayev lại đau đầu. Rõ ràng đây không phải chủ nghĩa xã hội dân chủ khoa học mà ông mong xây dựng; người dân còn thiếu lương thực, ngân sách cạn kiệt, môi trường quốc tế khắc nghiệt hơn tưởng tượng.
Mô hình đa sở hữu kinh tế — bị phe bảo thủ chê là phản bội Marx-Lenin — cũng bị siết chặt; ít ai hưởng ứng thành phố thí điểm của Yanayev dù ông đã dành ưu đãi thuế và trợ cấp. Cuối cùng, họ vẫn không tin tưởng vào cải cách, lo sợ chỉ hôm sau chính sách đổi khác.
Chống đầu tư để phát triển kinh tế đa dạng phải được đưa vào nghị trình Quốc hội và quy định trong Điều lệ Đảng — khi đường lối đã định, tổng thống muốn làm gì cũng được.
“Khi nào tôi được trở lại Bộ Tổng tham mưu? Ở đó vẫn còn đám sâu bọ Xô Viết phải dẹp, chúng cũng là thủ phạm làm suy yếu kinh tế Liên Xô.” Ogarkov không giấu ám ảnh bị loại trừ trước đây, bỗng nảy ra vài sĩ quan trẻ được Yanayev ưa thích.
Yanayev hiểu Ogarkov đang nghĩ gì, nên thẳng thừng từ chối: “Đừng mơ dùng quân đội để khống chế Đảng. Tôi trọng tài năng của ông, Thống chế Ogarkov, nhưng nếu ông đi quá giới hạn, tôi không để ông thảnh thơi làm Tổng thanh tra nữa — và tôi cũng chẳng ngại nhốt ông vào tù.”
.
Bình luận truyện