-
Quyển 2
Quyển 3
Quyển 4
Quyển 5
-
Chương 1 : Nơi tiểu xá Hai Long từ cựu ngỡi, Khỏi dưỡng đường Ái Nhơn khóc tình xưa.
-
Chương 2 : Đá trắng dựng mồ ghi nghĩa nặng, Cỏ xanh che nổng lấp tình dài
-
Chương 3 : Nghĩa Hữu ép thị Hoa vầy ngãi, Dép để đầu mão lại trong chơn
-
Chương 4 : Giữa tiệc rượu thị Hoa nhìn mặt chủ, Ngoài hiên chợ Ái Nhơn gặp cừu xưa
-
Chương 5 : Cha ngỗ nghịch sanh con ngỗ nghịch, Chủ tận tâm tớ cũng tận tâm
-
Chương 6 : Hoa ép Hữu ký tên giao của, Nhơn đuổi Thoàn khỏi cửa lầu trung
-
Chương 7 : Nhơn đuổi Thoàn đi ra khỏi cửa, Thoàn đội trạng cáo giữa quan nha
-
Chương 8 : Chốn công đường thị Hoa binh chủ, Giữa quan lộ Thoàn quyết sát nhơn
-
Chương 9 : Tầm người phải mà giao của cải, Nghe tiếng đồn có ngãi thầm thương
-
Chương 10 : Trai tài đã say tình gái sắc, Thuyền quyên còn e mặt anh hùng
-
Chương 11 : Hoa ngộ bướm hoa nguôi dạ nhớ, Bướm cách hoa bướm chạnh lòng thương
-
Chương 12 : Vì tình nặng Anh Cô dời gót ngọc, Ước nghĩa dày Ái Nhơn mở lời vàng
-
Chương 13 : Lời chưa cạn Ái Nhơn trao thơ cá, Kể sự tình Anh Cô gởi tình nhân
Quyển 6
-
Tuỳ chỉnh
Font chữ
Palatino
Times
Arial
Georgia
Cô hổ mặt ngồi không yên chỗ. Nhơn toại lòng mắt ngó quên thôi, cuộc ước mơ từ đấy phỉ rồi, mặt thích chí ối ôi, ỷ ỷ. Kề má hun cho phỉ chí, cha chả là ngon, tay nưng niu chà quí muôn ngàn, đóa trà mi chưa quen giọt mưa chan, đau quá mà!
Đỡ hất lấy tay chàng và háy!!!
“Chàng ngồi đấy thiếp xin phân lại, đừng vội chi mưa vải cửa song, cuộc vợ chồng đừng làm cách bướm ong quen thói. Người dòm thấy chi cho khỏi nói, có phải là phận liễu bồ thẹn với cỏ cây, nghĩa trước mai có thiếu chi ngày, phải tình trăng gió sao nay mai rời rã?”
Nhơn nghe mấy lời nàng phải quá, khó mà toan vạch lá bẻ hoa, chàng nói rằng: “Tình nặng mới là, song cũng thôi người ta chẳng lạ. Không mấy thuở phụng loan vầy một ngả, muốn phân trần cho tỏ dạ trăm năm, ngồi giữa nầy thẹn mặt tri âm, xin vào trướng đôi ta trò chuyện.”
Cô ngỡ thật chẳng đợi mời nhiều tiếng, theo chơn chàng vào chốn phòng loan, nàng đưa tay ra vén tấm màn, thấy trướng nội vẻn vang cha chả. Bên vách phấn tượng tranh nhiều kiểu lạ, dựa tường vôi đờn địch chả thiếu nghề, giữa bàn tròn quanh để Ton-ne (Thonet), tả hữu có bíp-phê (buffet) tủ kiếng.
Quạt mây phạt chéo màn xao xuyến, hơi gió bay nực mũi dầu hoa, giường ruột gà mùng trắng tợ tuyết sa, nệm cao lót trải dra (drap) rất sạch. Gối tai bèo phau phau xem phải cách, mền tuội khoe màu bạch rất xinh. Gái thú quê thấy vậy khoái tình, dầu lòng sắt dạ đinh cũng bở.
Ái Nhơn đặng vui mầng một thuở, dẫu chưa nên chồng vợ cũng rằng, một phút may thỏ gặp bóng hằng, dám sanh cuộc Minh Hoàng du cung nguyệt, tình thương biết bao mà kể xiết. Thầy tu ôi, kinh kệ chi cho thiệt phận mình, nếm thử mùi ngọt dịu thế tình cho thỏa chí bình sinh một kiếp!
Kề đôi má, chàng chàng thiếp thiếp, gối luồn đâu phải dịp giao đầu, hèn chi nay lời tục có câu, thương chẳng lựa là cầu mà dễ, miệng đàm đạo như thầy tu đọc kệ, tay lần mò như thầy bói lần song, hết hồi vui nựng nịu lưỡng long. Nhơn mới dục lòng trăng gió, chưa từng chịu mưa mây đánh đổ, trà mi đâu mở lộ ong đi.
Cô rằng: “Như vầy đây cũng nghĩa tương tri, chàng chớ vội làm chi thới quá.”
Nhơn thẹn mặt kiếm lời giả lả, rằng: “Có gió trăng vàng đá mới ra, lại thêm cuộc tang thương ai biết đâu là, sợ một nỗi trăng già xe trái. Kiều với Trọng biết bao tình ân ái, tiếc với nhau lạc bước rồi nghĩ lại mà thương, tưởng đá vàng tìm khắp thôn lương, nàng cũng đã bướm chường ong chán.
Nghĩ vậy nên e cuộc chung tình mình xao lãng, cũng vì lòng tưởng bạn trăm năm, phải nào ham vui cuộc ăn nằm, mà nàng phải hẹp tâm ngăn cản. Tôi mà muốn được vậy rồi, hồng quân có ghét ghen chẳng đáng. Sâm thương đành, nghĩa bạn chẳng phai, may mà phước hồng soi nàng đặng thọ thai, tình máu mủ để ngoai ngải trượng.”
Anh Cô rằng: “Lời êm thuận giá đành vô lượng, tâm ngàn tư thương tưởng khó cầm, nhưng mà, việc tóc tơ là việc trăm năm, lý đâu lại âm thầm sao phải. Chàng nghĩ mà coi, hổ sanh làm phận gái, chữ tiết trinh ai lại bỏ trôi, tưởng tình nhau vậy cũng đủ rồi, vàng đá thiếp đền bồi có thuở.
Nếu mà chữ trinh ấy để cho lầm lỡ, đuốc hoa sau mắc cỡ với chàng, chỉ hồng nầy đôi lứa đã vương mang, vậy thì làm cho Nam Giáng với Đông Sáng nở mặt. Vẫn biết cuộc phong vân bất trắc, đối diện mà chưa ắt tương phùng, biết vậy thì chàng phải mau sáu lễ sẵn dùng, cho hết nỗi tình chung lầm lỗi.
Chàng coi lấy đó mà coi, một lời nguyện Nguyệt Nga không dời đổi, sợ trai như Vương Bội mới là, sắc cầm nầy đặng hiệp một nhàn, thiếp dám tiếc chi mà phòng vội. Tưởng nhau lắm mới chẳng nài sự lỗi, phận gái sao đêm tối nằm đây, nghĩ bấy nhiêu đủ biết tấm tình nầy, lựa là phải mưa mây đánh đổ.”
Lời chưa cạn bóng hồng đã lố, khiến cho chim xanh thôi thoát về rừng, tình thì dày mà đêm vắn quá chừng, Ái Nhơn giận muôn ngưng mặt nhựt!!!
Anh Cô mới chỗi mình lật đật, gác tình thương ngơ mắt xây lưng, giã Ái Nhơn thượng lộ đề chừng, kẻo trễ bước mẫu thân chờ đợi “Việc giai ngẫu chàng mau bước tới, cho ra bề nhơn ngỡi với nhau, đó với đây dạ đã một màu, thuyền quyên với anh hào phải lứa. Chàng chớ khá nay lần mai lựa, mỏi lòng đây càng bữa càng trông, chẳng phải tuồng bướm bướm bông bông, mới hiệp đó phụ lòng nhau đó.”
Nhơn nghe nói lòng sầu võ võ, chan đôi tròng mắt ngó dàu dàu: “Bậu chớ lo kim bạc phụ tơ đào, một lời kết thâm giao chẳng đổi. Qua với bậu tuy chưa chăn gối, xích thằng đà buộc mối chỉ tơ, buồn là buồn cơn xẻ hai kẻ đợi người chờ, thảm là thảm lúc lòng mơ dạ ước.Dầu sao cũng Kiều Ô gặp thước, đến điều nào Mai Trước chẳng xa, nàng có lòng gắn bó cùng ta, nguyện kết tóc đến già cùng bạn.
Lát … xe song mã mi mau khá thắng, đưa Ái nương đi thẳng tới nhà, khốn thay! Đượm giọt hồng tuông giọt huỳnh hoa, gác tủi thảm cơn sầu đà dồn vập.”
“Chàng ôi, còn thương tưởng hãy lấy còn trông gặp, thiếp khuyên chàng ngơ lấp mạch sầu, một lời nguyền chứng có cao sâu, ai đen bạc búa dao phân xử. Mặt giã từ quân tử, cho tiện nữ trở về.”
Cho hay nết hường nhan không thuốc mà mê, xe khuất bánh Nhơn dầm dề hột lụy.
Vó cu thoát Anh Cô ngồi nghĩ, nghĩ mà mầng ngư thủy sánh duyên; nhớ khi đi xem cảnh rất phiền, nay sao lại như miền tiên động. Hoa vòng trổ màu hồng lá rụng, chim chuyền nhành tiếng cũng rảnh rang, kìa mục đồng cõng chạy nghinh ngang, nọ con gặt hò khoan hố huội. Đi, về, tính cách khôn mấy buổi, phong cảnh xem dời đổi biết bao hèn chí tục rằng: người buồn cảnh có vui đâu, người vui sầu thảm cảnh âu sầu thảm.
Về tới cửa Anh Cô vào bẩm, rằng: “Ái Nhơn bị cảm thương hàn, nay xem chàng cũng đã đắc an, nên con trẻ giã chàng phản bộ.”
Mụ dì nghĩ: “Con nầy mà ngủ dưới đêm nay, có lẽ cùng chàng trăng gió, lý nào không thổ lộ nguyệt hoa, lửa gần rơm không cháy cũng nám mà”, sợ nên dấu mụ già chẳng nói.
“Nầy con, con ở dưới trong cơn tăm tối, Ái nhơn không tỏ nỗi nào sao, mẹ tưởng khi vườn hồng con dầu khéo ngăn rào, chàng cũng trỗi giọng cao giọng thấp, chớ lẽ nào không? Khuyên trẻ dại mựa đừng e ấp, mẹ không lòng nê chấp chi đâu, con mà gặp Ái Nhơn mẹ cũng nên cầu, người đáng mặt anh hào xử thế.
Mẹ rõ thấu tất lòng con trẻ, vậy con mau cạn kể đầu đuôi, từ Ái nhơn mà khởi sự tới lui, mẹ soi thấu khúc nôi trong đục. Ái nhơn muốn kết niềm tơ tóc, nên không lời ghẹo chọc tới con, lễ vật thường đem tới chiều lòn, đặng tỏ tất lòng son với trẻ.
Từ Lát tới nói chàng không an quới thể, mẹ biết rằng là kế Ái gia, muốn cùng con phu phụ hiệp hòa, nên làm như thế con đến nhà trò chuyện. Mẹ cũng biết con có tình lưu luyến, nhưng mà con giữ vẹn chữ trinh, bởi vậy mẹ giả đò không rõ ý hình, để cho trẻ tới đó tỏ tình giao kết. Vậy con trẻ khá mau khai thiệt, cho mẹ già tinh việc lứa đôi, đừng để cho trầu nọ xa xôi, vung nọ xa nồi rồi trách.”
Nghe phân cạn ngọn nguồn minh bạch, nghĩ cái duyên kim thạch lạ lùng, chuyện mình làm đã kín hơn mùng, ai bày tỏ khúc trung như vậy. Không thể chối Anh Cô liền cúi lạy, cùng mẹ già phân giải sự tình: “Vẫn biết rằng phận gái lộ trình, khó mà giữ chữ trinh cho đặng. Lời giao kết cùng chàng đã hẳn, điều nguyệt hoa con chẳng có đâu, chàng hứa dùng sáu lễ đến cầu, cậy mai mối rước dâu Nam Giáng. Vì trước đã mến yêu sĩ tráng, nên trộm giao vầy bạn ở đời, tình thương nhau thật chẳng muốn rời, lẽ đâu lại quên lời đổi dạ.”
Mụ rằng: “Vậy thì từ đây trẻ phải thinh lòng vàng đá, đừng chuyện trò cũng chả viếng thăm, để mẹ lo tính cuộc trăm năm, chớ lui tới âm thầm chẳng tốt. Mẹ biết chắc không mai thì mốt, chàng nhớ thương cũng tuốt tới đây, con phải làm như vậy, … như vầy … mới khỏi lỡ bực dạy cầm sắc.
Nghĩ chẳng lẽ mà chàng nín bặt, vắng mặt thì cũng ắt có tin, hễ có thơ bàn luận sự tình, con mau khá đem trình với mẹ. Để mặc mẹ liệu lời định lẽ, liệu làm sao cho đôi trẻ sánh vai, mới xứng cho gái sắc trai tài, để lần lựa duyên phai phấn lạt.”
Kể từ buổi đôi đàng phân Nam bắc, Ái Nhơn rầu ruột thắt đòi cơn, ngày những đêm mơ ước sự dươn, sớm cùng tối lòng dường muối xoát. Vẫn biết một lời nguyện trăm năm ghi tạc, nhưng mà biết bao giờ giao mặt bắt tay, khốn thay, mãn ra vô mơ tưởng cái liễu mày, ngồi đứng luống trông hoài ngọc cốt.
Ái Nhơn mới ngụ tình cất bút đề thơ trao tỏ chút tấm lòng, “Năm Lát ôi, Phùng Xuân ôi, có tưởng qua mựa chớ nệ công, bay tới đó giao phong tin gió.”
Bẩm cậu: “Phận tôi tớ dám đâu than khó, có khó thì chịu khó mới khôn, một mai dầu bàng điểu ngộ lam phong, lẽ đâu cậu phụ lòng tôi tớ. Cậu mà chẳng giúp đặng nên nhà nên cửa, thì cũng là giày vớ lược khăn, tôi chẳng phải là thằng nói dóc kiếm ăn, mượn sức xích thằng đưa đẩy.
Tôi khôn dại cậu đà ngó thấy, chẳng cần chi tôi phải khoe khoan, cha chả, khó như bựa nàng Ban, tôi nói càng cũng đặng. Huống chi mợ với cậu đã chuyện trò đêm trắng, lý đâu nay chửi mắng tôi sao, lại thêm tôi có công cực khổ biết bao, đưa tước lẽ nào chẳng tưởng.
Tôi lên đó ba tấc lưỡi vào ra độ lượng, chỉ tơ sao cũng cướng chẳng không, cậu bẻ cho tôi ít đồng, tôi rước mợ chạy dông trở xuống.”
“Thôi đi mi đừng toan nói bướng, Anh Cô mi tưởng như ai, đã khôn ngoan lại có trí dày, nào phải kẻ mua mai bán tối. Sự hao tốn ta không tiếc luối, song ta e moi nói bối lấy rồi, chừng về đây không đặng thì thôi, không phép thường bồi chi gã. Chớ nhiều tiếng xuôi lòng ta buồn bã, mựa kiếm điều dối trá ngỗ ngang, mi mau khá sửa sang, kiếp lên đàng kẻo trễ.
Trao thơ nhạn mi ráng mà kể nể, kể sự tình nặng thể núi non, ngày thẩn thơ ăn chả biết ngon, đêm dật dựa hao mòn hình vóc. Một trông gặp tỏ niềm tơ tóc, kẻo mà ta trần trọc canh khuya, muốn làm sao như khóa với chìa, kẻo mà sợ nỗi kim lìa chỉ.”
“Dạ dạ, cậu trở vào an nghỉ, để mặc tôi trực chỉ đàng chim, tôi nói thiệt, chừng nào cho đá nổi vòng chìm, thì mới sợ chỉ kim rời rã.”
Nhơn vào cửa Lát bèn vội vã, bước lên xe song mã giơ roi, giải nắng mưa bao nại công tôi, miễn là đặng đáp bồi ơn nặng. Vái bà nguyệt xe săng chỉ thắm, cùng ông tơ buộc vấn mối hồng, đi chuyến nầy mà giai ngẫu tính xong, sao cũng đặng thưởng công chẳng nhỏ.
Đang bàn luận bỗng đâu tới ngõ, Lát gò cương chơn nọ bước vào, Anh Cô trong lật đật ra chào, mụ dì hỏi Lát “Đi đâu đó vậy? Cơn rảnh việc em đảo vô phường rẫy, hay là Ái gia có dạy chuyện chi, mau nói ra cho mụ tường tri, kẻo mà mụ luống nghi tấc dạ?”
Lát rằng: “Thưa dì, chẳng có điều chi lạ, đương con thong thỏa đi, sẵn dịp ghé thăm dì, cùng cô hai luôn thể.”
Miệng thì nói vậy mà nháy lia nháy lịa, liếc bên kia rồi liếc bên này, cùng Anh Cô tỏ ý riêng nầy, bởi sợ mụ dì hay nói trớ. Anh Cô thấy giả hình mừng rỡ, rồi tỏ lòng hớn hở cười mơn, nhỡ thật tình nào rõ thiệt hơn, năm Lát mới trao phong thơ tín.
Tay vói lấy Anh Cô làm tỉnh, hỏi lớn rằng: “Thơ kỉnh cho ai?”
Mụ dì nghe liền biểu tương lai, năm Lát đứng mặt mày xanh lét!
Mụ rằng: “Năm, em phải mau nói thiệt, cho qua rõ hết ngọn ngành, vậy chớ ai biểu em làm nhạn đem tin, xui những việc tệ tình chi đó? Em cũng biết phận mẹ góa con côi nghèo khó, nhưng mà chưa từng ra dựa ngõ đứng đường, dễ lòng nào em chẳng biết thương, khiến chi chuyện hoa tường liễu ngõ?”
Lát nhắm thế không phang nói đổ, chẳng lẽ mà đứng đó hàm thinh, túng phải khai mọi nỗi sự tình, rằng: “Chẳng phải tại mình muốn vậy, Kể từ bữa cậu tôi tới thấy, thấy Anh Cô lòng lại phải lòng, muốn cùng nhau kết nghĩa vợ chồng, nên mới gởi một phong thơ nhạn.
Gẫm như cậu tôi vậy cũng là xứng đáng, nên tôi mới ra lãnh mạng lập công, may sau dầu săng sợi chỉ hồng, cậu tôi há phụ lòng tôi tớ. Nay việc kín đến đều vỡ lỡ, xin dì thương mựa chớ chấp nê, dì nghĩ đó coi, ngô đồng dầu gặp phụng hoàng thê, thì cũng đặng vui bề sum hiệp.”
Mụ rằng: “Ái gia thiệt nghĩ suy chưa kịp, dốt chi câu hồng diệp xích thằng, nếu mà chàng quyết đạo gối chăn, lựa là phải kiếm đàng dấu ngược. Nay mụ đà bắt được, thôi cũng đừng dấu trước lòi sau, Anh Cô, khai phong đọc cho mau, mẹ nghe thử lẽ nào sẽ tính.”
Anh Cô liền vâng lịnh, năm Lát đứng nín khe, mụ dì thì ngồi lóng tai nghe, nghe thử việc thơ đề chơn giả.
Thơ rằng:
“Buồn cha chả, ra vào buồn cha chả,
Thảm bưng khuâng, ngồi đứng cũng bưng khuâng,
Buồn vì dươn đôi giọt không ngưng,
Thảm vì ai nỗi rưng rưng hột lụy,
Lòng những ước một đoàn ngư thủy.
Dạ chí lăm kết chỉ xe dây,
Ngày những đêm mơ tưởng cái liễu mày,
Sớm cùng tối ái hoài trang ngọc cốt,
Chưa rõ phải Xích thằng đà vấn buộc,
Hay là Nguyệt lão theo ghẹo cuộc gió trăng,
Tuy đôi ta chưa có gối chăn,
Song một tiếng cũng rằng vàng đá,
Kể từ bữa giăng tay phân hai ngả,
Đau đớn dường như cá ngại đôi đàng,
D0e6m năm canh thổn thức mơ màng,
Ngày sáu khắc không an tấc dạ,
Làm sao đặng vui miềm lòng bá,
Kẻo còn lo đôi ngã Sâm thương.
Muốn tạm dùng sáu lễ phô trương,
Nhưng còn ngại xuân đường chẳng tưởng.
Thế nào tiện xin nàng liệu lượng,
Phang nào hay chỉ vướng tơ vương,
Bởi vì ta luống những nhớ thương,
Nên mới gởi một trương tâm sự,
Tay hào kiệt kề vai thục nữ,
Nghĩ cho rằng thiên tứ lương duyên,
Trai anh hùng sánh gái thuyền quyên,
Xét cũng bởi tự nhiên giai ngẫu,
Niều tâm sự nàng đà hiểu thấu,
Xin nghĩ tình lai đáo gia trang:
Gặp mặt nhau bày tỏ đục trong,
Cho phỉ thửa tấm lòng hoài ái.”
Ái Nhơn ký hứa.
Đọc vừa dứt mụ dì liền nói lại: “Ái gia sao khéo ngại bụng ta, kể từ khi chàng bước tới nhà, thấy tánh nết ôn hòa mụ cảm. Cảm thì cảm vậy chớ xét đến phận càng thêm the thảm, thảm hàn vi chẳng dám nói ra, nay chàng dầu muốn hiệp một nhà, há chẳng đẹp mặt già với thế. Mụ bao nỡ phụ lòng con rể, mà chàng phải làm theo thói trẻ vườn dâu;
Anh Cô, chớ nào bút chỉ ở đâu, con khá mau hồi tin. Rằng con vâng mẫu lịnh, kỉnh lời cung thỉnh Ái gia, chàng mựa từ gót ngọc tới nhà, đặng cho mẹ phân qua sau trước.
Năm Lát vì em đã có lòng mai ước, quyết đem đàng cho thước ngộ Kiều ô, phong thơ nầy là thơ của Anh Cô, kính gởi cho Ái Sĩ. Em khá tua gắng chí, trao thơ tỏ ý cùng chàng, nếu chàng mong kết nghĩa đá vàng, Anh Cô nguyện keo san gắn chặt. Song chàng phải đáo lai thảo thất, cho đôi đàng giáp mặt luận bàn, rằng qua đây có dạ thương chàng, muốn vùa giúp phụng laon kết cánh. Chàng mựa chớ nghi lòng xa lánh, mà làm cho ngôn hạnh phản nhau, một lời chàng đã kết thâm giao, muôn thuở chớ lãng xao lòng sắt.”
Bây giờ đây năm Lát mới ngước mặt lên cao, nghe mụ dì dặn bảo trước sau, l4nh thơ nhạn mau mau từ giã. Vội vã trở bánh xe song mã, về dọc đường nghĩ sạ quá hay, hèn chi tục nói rằng người có duyên gặp rủi cũng hóa may, kẻ vô phước lúc may day lại họa. Mình lãnh bốc việc nầy tưởng đã, có dè đâu đặng khá quá mà, chuyện tóc tơ vui dạ chủ nhà, lo chi chẳng thưởng ta nhiều ít. Ba tấc lưỡi tự tình xê xích, không dại rồi mặc thích bớt thêm, nói rằng mình tính việc đã êm, chắc tơ như nêm đóng chặt.
Vó cu qua thấm thoát, hết ngõ tắt đường quanh, Lát còn đương bàn bạc sự tình, phút đâu tới nhà mình rồi đấy.
Ái Nhơn ngó thấy, chơn vở chạy bon bon, hỏi việc chàng có đặng vuông tròn, Anh Cô dạ có còn tưởng đoái?
Lát nghe hỏi chẳng thèm nói lại: “Để vào nhà phân giải nguồn cơn, đi chuyến nầy công khó nào hơn, cũng vì một sự dươn của cậu.”
“Phải, công khó ấy ta đà rõ thấu, vậy mà thành giai ngẫu cùng chăng? Hay là mi làm cho e mặt ả hằng, để thỏ luống ước trăng chờ bóng?”
“Thôi đi cậu, nhiều chuyện nghĩ âu trặc họng, tại vì đâu xét cũng chẳng ra, tưởng cậu nên nàng mới tới nhà, trò chuyện trót canh gà với cậu. Ngỡ loan phụng một nhà hòa hảo, dè đâu, trao bức thơ nàng lậu sự tình, chẳng phải nàng ngơ mặt không nhìn, song nàng chẳng hàm thinh dấu tín.
Hỏi thơ nọ có điều chi kín, thơ của ai kỉnh gởi cho ai, dì ngồi gần nghe đã tạng tai, tôi chết điếng như say cô-nhát.”
“Thôi rồi, công việc ta phú thác, ra cớ sư ni còn chi mà kể chắc tình chung, ấy mới quả vô duyên đối diện bất tương phùng, thuyền quyên với anh hùng phân lưỡng lộ.”
“Cậu mựa vội than câu tế ngộ, e đến điều hơi giá bặt lòng đau, tuy mưu kia đã lậu mặc dầu, song chẳng đến đỗi nào mà sợ.”
“Sao lại không sợ … a .. Lát?”
“Vì tôi đã kiếm lời nói đỡ, may dữ cậu.”
“Chi mà mi gọi may?”
“May là có lỡ ra duyên nọ mới thành, chỉ hồng đà bén vướng tơ mành, lo chi nợ ba sanh thoát khỏi.”
“Thôi mi đi, đừng múa mỏ khua môi nói giỏi, lậu tâm tình ai gọi rằng xong, dẫu mà cho nàng có nặng lòng, lịnh trên ắt cũng không khứng chịu.”
“Thưa cậu, lẽ ấy tôi đà sớm liệu, bởi cậu chưa có hiểu nên nghi, dụng mĩ từ tôi bẩm cùng dì, nên dì đã nghĩ vì đến cậu. Bây giờ dì hãn thấu, lòng thương cậu bội phần, cũng muốn cho đôi lứa đặng gần, dì có dạy phân trần cùng cậu.
Dì lại dặn, cậu phải mau lai đáo, giáp mặt rồi đàm đạo sự duyên, dẫu mà trời không xui rể thảo gặp dâu hiền, nhơn định cũng thắng thiên mà chớ.”
“Dẹp mi đi, công việc đà vỡ lỡ, mi còn gạt ta cho mắc cỡ nữa sao? Ta nói thiệt duyên nợ nầy mà có lãng xao, cũng tại bởi mi vào khuấy phá.”
“Cậu chớ tưởng rằng tôi xả trá, sau ăn năm thì đã muộn rồi, tôi muốn cho loan phụng sánh đôi, lẽ đâu khiến lôi thôi cầm sắc. À, quên đi nữa tôi sẵn có phong thơ làm chắc, cậu xem qua lở-u đắc chơn tình, của Anh nương kỉnh gởi hồi tin, mắc nhiều chuyện quên trình với cậu.”
Nhơn nghe nói thơ thậm hẩu, như vầy đây mới thấu giả chơn, phong cầm tay chưa rõ thiệt hơn, mừng lộn sợ lòng Nhơn hồi hộp. Thơ chưa đọc mà chàng đã khớp, không thấy đàng, mắt chớp hào quang, lại trách rằng: “Thơ từ gì mà không lối không hàng, viết chữ nằm ngang nằm dọc. lại thêm không bỏ dấu mới biết sao mà đọc hay là Anh Cô ghẹo chọc ta chăng?”
Lát biết xem mới cất tiếng nói rằng: “Thơ như vậy còn không ngay hàng ngay chữ. Bộ cậu mừng quýnh quíu quên hết vần quốc ngữ, rồi trở ra trách cứ người ta, gái như Anh nương lội lạc tài ba, nghe nói tiếng Lang sa giỏi quánh mà!”
Nhơn nghe nói hổ ngươi, mới tỉnh, ngó Lát rồi thủng thỉnh xem thơ, cuộc mừng vui chung ở một tờ, cũng vì sợi tóc tơ nên mới.
Thơ rằng:
“vâng lịnh mẹ thơ nhàn gởi lợi,
Tiết nghĩa chàng tin cá nhắn sang.
Trước là phân cho rõ đá vàng,
Sau tỏ nỗi tào khang chi đạo.
Tuy chưa đặng tác thành giai ngẫu,
Chớ cũng rằng kết cấu trái oan,
Một lời giao thệ hải minh san.
Trăm năm nguyện keo sơn gắn chặt.
Kể từ bữa phân tay nam bắc,
Lòng ước mơ cầm sắc Bén duyên.
Kể từ khi chung gối Tây hiên,
Dạ hằng tưởng bách niên phu phụ.”
Cớ ấy nên:
Năm canh luống mơ màng chẳng ngủ,
Sáu khắc sầu võ võ không an.
Vừa may đâu thiếp gặp tin chàng,
Phước lại đặng thơ nhàn đem tới.
Mừng chưa kịp họa đâu khéo gởi,
Vui không cùng rủi lợi thình lình.
Năm Lát không dè lúc trao tin,
Thân mẫu mới thấu tình ân ái.
Phận làm mẹ thường hay nghiêm dạy,
Lẽ nào dung dưỡng gái lăng loàn,
Đạo làm con tứ đức chẳng toàn,
Lý đâu dám ngỗ ngang với má.
Ra cớ đỗi ni:
Sự mai ước tưởng đà cũng đã …
Cuộc lứa đôi rời rã còn chi!
Còn chi trông tương kiến tương tri,
Hết thế đợi phụ tùy phu xướng,
May nguyệt lão xe săng còn vướng,
Xui mẹ già độ lượng hải hà,
Thấy chàng than ước hiệp một nhà.
Nghe tiếng thở thương mà bỏ quá,
Mẹ rằng: Đạo tào khang là giềng cả,
Nghĩa phu thê là sạ tam cang,
Xích thằng dầu buộc trói hai đàng.
Bạch phát há cản ngăn đôi lứa,
Vì Túc Đế trước đà lần lựa,
Thiên Thành xui hai đứa trái oan,
Mẹ lẽ nào nghịch ý tạo đoan,
Làm đến đỗi phụng lao rẽ cặp.
Nhưng mà, mẹ chẳng muốn âm thầm khuất lấp.
Phải ra bề sửa trấp nưng khăn,
Bởi mẹ e đen trắng khó phân.
Mẹ mới dạy: Mời chàng đến tố trần hắc bạch.
Như chàng có giữ lòng kim thạch.
Xin mựa đừng chấp trách khó khăn;
Chàng nhẫn dầu đẹp phận gối chăn.
Thì chớ khá than rằng cực khổ,
Da sinh nợ khó mà lựa chỗ,
Bến mười hai đâu rõ đục trong.
Hễ nữ vi duyệt kỉ giả dung,
Tưởng cùng chẳng tại lòng quân tử.
Thương chàng bởi tánh tình cư xử,
Mến chàng vì trí tự cao sâu.
Phải nào yêu sự nghiệp chàng đâu,
Phải nào chuộng nơi giàu nơi có.
Như Đăng nọ quyết vầy cùng Đó,
Thì chớ rằng Trăng tỏ hơn Đèn.
Nếu ước cho Muốn hiệp với Sen,
Khuyên đừng nệ khó hèn khác bực.
Việc tâm sự thiếp đà tỏ thật,
Có tưởng tình thảo thất mựa từ,
Chớ ngại nàng công uổng danh hư,
Thiệt phận thiếp, Đêm tư ngày tưởng!”
Anh Cô tiện nữ.
Nhơn đọc dứt Lá liền xin thưởng: “Đó, cậu thấy không? Nếu không tôi liệu lượng chẳng thiền, cho hay rằng thiên tứ lương duyên, cũng nhờ có rôi siêng mới được.”
“Thôi mi đi, phải chăng có xích thằng buộc trước, thì còn chi ô thước tương phùng, mi làm cho lậu tiếng bướm ong, còn dám kể tất công mai mối? Lẽ phải thì ta làm tội, song nghĩ tình tha lỗi cho mi, kể từ đây tao biểu chuyện gì, mi phải ráng mà ghi vào dạ.”
Xong chưa! Cậu nầy kho trong thá, bắt đặng cá quên nôm, công khó mình lặn lội đêm hôm, đà trút sạch theo giòng nước chảy, hèn chi tục xưa còn để lại, chẳng chi mà thiệt hơn mai, buổi chưa xong biết tấc công dày, chừng rồi việc vặn nài bẻ ách.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Nhơn mầng đặng tin nhàn nhẹ tách, tới lều tranh tầm mách sự duyên, mới biết rằng thiên tứ lương duyên, định rể thảo dâu sánh cặp. Tới Chợ Lớn Ái Nhơn bỗng gặp, đám cưới người đang sấp ra đi, thấy xe mui kiếng thiếu gì, xem phụ nữ với nam nhi đi họ.
Già sồn sồn cũng có, gái nhỏ nhỏ thiếu chi, nước vàng vòng dọi mặt phương phi, màu áo chói dung nghi tuấn tú. Trên thì quai tơ nó cụ, áo hàng màu bận đủ mớ ba, tay móng dài đeo ngọc chói lòa, lãnh Bắc Thảo dọi màu ra da-bát. Mang giày thêu cườm cắt, đáng cho phải má hồng; trước thì họ đớn ông, đội những nón lông tuội nhiễu. Ăn mặc thật xem ra phải điệu, áo địa xanh lót chiếu màu hồng, chơn mang giày ăn-phón ma-rông, quần củng-xá Quảng Đông gởi lại. Còn chàng rể đâu mà chẳng thấy?
Hỏi rằng: “Áo rộng xanh ngồi đấy phải không>”
“Phải, bưng qua đèn ngồi với mai dong, còn xe trước là ông trưởng tộc. Ủa! Con chi đó mà để trong củi nhốt, lại nghe kêu ột ột om sòm?”
“À há, heo mà lưng son nhuộm đỏ lòm, hai người xỏ một đòn khiêng củi.”
Nhơn thấy vậy trong lòng bối rối, xét việc mình may rủi thể nào? May sau dầu lưỡng tánh tương giao, làm rực rỡ tốn hao chẳng nệ. Chế sửa bói coi cho phải lễ, đừng làm kỳ miệng thế chẳng kiêng, cuộc hiệp hòa rể thảo với dâu hiền, cầu chúc đặng phỉ nguyền cầm sắc.
Họ đương đi đủ mặt, quan hàm chức sắc thiếu chi, làm sao chẳng biết kiêng vì, để heo củi chen đi với họ. Tục trước vậy đời nầy nên bỏ, vậy mới rằng nghiệm cổ suy kim, đời văn minh tua ráng sức tìm, đừng lấy chỗ tị hiềm tật đố.
Nhơn buông cương giục vó, noi quan lộ ruổi giong, thấy cò bay én liệng trong đồng, nhìn cảnh vật chạnh lòng nhớ bạn. Cuộc đôi lứa tuy chưa quyết đoán, mà ngày đêm những mãn nhớ thương chẳng biết vậy mà trời có xui nêm đạo tào khương, xích thằng có vấn vương chỉ đỏ. Vái bà nguyệt đừng lòng ghét bỏ, xe làm sao cho đó hiệp đăng, gái với trai đẹp phận gối chăn, kẻo mà ngày tháng dạ bằng hoài ái.
Sợ một nỗi đôi đàng vô oan trái, khiến cho bề nhơn ngãi lỡ làn, tôi nhứt nguyện tôi với Anh Cô mà không nên nghĩa đá vàng, nơi chín suối khối tình càng dồn vập. Dương gian dầu rẽ cặp, âm cung nguyền tìm gặp mặt nhau, vậy mới rằng trọn nghĩa thâm giao, kim bạc với tơ đào chẳng phụ.
Đang nghĩ nghị bỗng đà tới chỗ, Nhơn ngừng xe quan lộ bước vào, mụ dì nghe lật đật ra chào, Cô vừa thấy xôn xao tới hỏi. Nhơn mừng tợ long vân gặp hội, thỏa tình như mưa gội hạ thiên; mụ dì liền trà nước mời khuyên, rồi đàm luận sự duyên của trẻ.
Rằng: “Mụ chẳng mong lòng phân rẽ muốn sao cho trẻ sánh duyên, nhưng mà mụ e chữ hàn vi nhơn ngỡi chẳng đặng tuyền, sanh ra việc đảo điên phận gái. Chàng dầu có tình kia tưởng đoái, quyết một lòng vầy ngãi trước mai, khư khư câu giao nghĩa mạt giao tài, khằn khằn chữ duyên hài gia thất.
Keo sơn sau gắn chặt, phước nhà mụ thật nhiều, mụ lẽ nào dứt mối chỉ điều, cho thước với Ô kiều hai ngả. Từ ngày chàng bức lá đề thơ thả theo dòng gởi lời than mụ cũng động lòng, nên kiếm trẻ đề phong gởi lại.
Mời chàng đến phân điều phải trái, coi thử bề ân ái tính sao, chàng mau bày hơn thiệt lẽ nào, cho mụ rõ âm hao tơ tóc. Kẻo mà mụ chưa tường trong đục, để vậy hoài Ngô Thục cách xa, tại nơi chàng định lấy thất gia, nói gì con Anh Cô nó cãi lịnh mẹ cha sao đặng.”
Nhơn nghe nói làm thinh lẳng lặng, muốn hở môi mà nói chẳng ra lời, ngồi hổ ngươi ruột rối bờ bời, ngần ngừ mới kiếm lời phân giải. “Dạ tôi quyết vầy duyên kim cải, một lời đà thệ hải minh san, kể từ khi đá biết tuổi vàng, lòng những ước phụng loan kết cánh.
Tôi mô dám làm điều bất chánh cho thế dèm ngôn hạnh phản nhau, dẫu rằng cho bình địa nổi ba đào, cuộc may rủi lẽ nào chẳng bỏ. Huống chi nay, lịnh trên đã hết lòng chiếu cố, lẽ nào tôi kiếm chỗ từ nan, dẫu rằng cho cực khổ muôn ngàn, tôi cũng ráng vầy đoàn nước cá.”
“Ấy vậy thì chàng đã nhứt ngôn thuyết quá, phải ghi lời vào dạ đừng sai, chàng về rồi cậy kẻ làm mai, qua đây với sui trai một lượt. Chừng giáp mặt bày lời giao ước lễ vật cầu mai trước hiệp hôn, miễn là cho đôi trẻ đặng vuông tròn, mụ chẳng phải bán con mà đòi của.”
Trên đã dành đôi lứa, Nhơn mừng lửa bén rơm, bây giờ đây trời đã huỳnh hôn, mau từ giã rồi bôn trở lại. Nhơn vừa mới đi ra khỏi chái, Anh Cô liền bước trái chơn theo, giả đưa chàng tỏ dạ mến yêu, ràng buộc mối tơ điều cho chặt.
Ái Nhơn xem thấy mặt, ngừa tối trời chụp bắt lấy tay, má giao kề phỉ dạ ái hoài, rồi chàng mới giải bày đôi tiếng: “Hết lo nỗi chơn trời góc biển, vầy một nhà vinh hiển biết bao, thôi thời nàng mau khá trở vào, để ta về trong vài bữa lẽ nào sẽ biết.”
Anh Cô rằng: “Xin chàng tính một đoàn Hồ Việt, chớ dần dà mà thiệt sự dươn, cuộc ở đời mưa gió không chừng, vì có chữ phong vân mạt trắc. Thiếp sợ lúc đôi đàng cách mặt, chàng đắm mê nhan sắc mà quên, hễ chơi trăng ắt phụ lửa đèn, thiệt bấy phận gái hèn mỏi đợi.”
Nhơn nghe nói tấm lòng phơi phới, bèn lần chơn bước tới ôm nàng: “Khuyên bậu đừng buông tiếng thở than, ta nguyện chẳng lỡi đàng nhơn ngỡi. Nàng chớ khá nghi ta là Ngô Khởi, tham quyền không nghĩ tới ái ân, miễn là nàng đừng noi gương vợ Mãi Thần, đâu tới nỗi Tấn Tần cách bức.”
Nhơn bước đi ba lần không dứt, tay chưa lìa đôi mắt vội chan, chi mạnh bằng cái nết hồng nhan, rút khách mạnh hơn là đá nam châm rút sắt!!!
Về tới cửa Nhơn bèn gặp Lát. Lát hỏi: “Xong không cậu?”
“Mầy thiệt là đại ác Lát ôi, may không thôi chút nữa đã rồi còn chi cái lứa đôi mà nói.”
‘Cậu nói chơi sao chớ? Tôi mới gặp một anh thầy bói, tôi có ngồi lại hỏi thử chơi, ổng nói rằng chẳng mốt thì mơi, sao cậu cũng yên nơi yên chỗ.”
“Mi thiệt là thằng dóc tổ, thôi đi, lo mở xe mở cộ cho rồi, dẫn ngựa ra quầng nó một hồi, cho hết đổ mồ hôi sẽ nhốt.”
Nhơn vào nghĩ suy đàng tơ tóc, biết cậy ai lừa lọc mối mang, sách có câu quân tử tạo đoan, ai chẳng gọi tào khang làm trước. Vậy thì sáng ngày ta lần bước, bẩm cùng dưỡng thân ắt được chẳng không, để mặc ngài liệu cậy mai dong, lo chi chẳng vẹn phòng chung gối.
Vừa rựng sáng Nhơn đà thúc hối, bắt kê xe giong ruổi đàng dài, chưa mấy hồi đã thấy tới đây. Nhơn ngừng vó bước ngay vào cửa.
Chú thợ vẽ thấy con mừng rỡ, hỏi chuyện chi hăm hở lạ đường, Nhơn đáp rằng vì việc cang thường, nên lật đật tới chường dưỡng phụ. “Xét trong cuộc nghinh hôn giá thú, thế còn ghi bất khả luận tài, miễn là cho đôi lứa gái trai, phải cuộc duyên hài thì đẹp.
Bấy lâu đã trải mùi huê nguyệt, con thiếu chi trong việc bướm ong, nên con mong lựa mối chỉ hồng, mà kết đạo vợ chồng với thế. Chẳng lẽ ở vậy hoài cho trễ, ngày tháng qua như thể tên bay, nay con đà gặp chỗ trước mai, cho hay rằng thảo thất hàn vi, bề dung ngôn ít chỗ dám bì, đàng công hạnh kém chi cửa các.
Tuy nhà chẳng đủ tiền đủ bạc, mà thật là mình hạt xương mai, con nặng nguyền kết tóc sánh vai, hẹn hò với cô ngày tương lễ, xin dưỡng phụ hết lòng thương trẻ, nhậm lời nầy mượn kẻ ước mai, con dầu nên gia thất duyên hài, ơn dưỡng phụ sánh tày sông biển.
Bấy lâu trẻ hết lòng tìm kiếm, không gặp nơi tài đức kết đôi, nay ai xui thương gái mồ côi, lẽ khi thiên tứ định rồi chẳng sái. Ấy là con vì ngãi, nào có phải vì tiền, miễn là cho tài đức vẹn tuyền, thì đáng mặt thuyền quyên sửa trắp.”
“Con chớ ngại lòng cha nê chấp, trai lớn khôn phải lập thất gia, lẽ nào con ở vậy tới già, không lựa chốn phải mà kết cấu. Nay con muốn tác thành giai ngẫu, thiếu chi nền phú hậu kết duyên, trai anh hùng sánh gái thuyền quyên, mới đẹp phận dâu hiền rể thảo.
Sao con lại tham sắc tốt quên đời cười nhạo, rằng dép đội đầu mão lại tròng chơn, con nhẫn dầu muốn kết lương dươn, để cha lựa cho hơn mới đáng. Thôi con chớ vội rồi sau thán oán, để mặc cha lựa bạn hiền cho, con mựa đừng bảy liệu ba lo, mà trái cuộc duyên Hồ với Việt.”
“Thưa cha con khôn lớn cũng đà trải việc, dễ nào không hiểu biết cuộc đời, chữ lương duyên nên chẳng tại trời, nào có phải lòng người muốn đặng. Niềm chồng vợ vì chưng nghĩa nặng, áo vắn e mặc chẳng đặng dài, chữ nghinh hôn bất khả luận tài, miễn là gái với trai đẹp phận.
Vẫn biết chữ tiền tài là phấn (1), câu nhơn ngãi ấy kim, nhưng mà cuộc phù vân nay nổi mai chìm, lại có chữ thiên kim di đắc. Muốn đẹp phận trai tài gái sắc, thì đừang so sánh bạc với tiền, miễn là cho nết gái vẹn tuyền, thì đành phận vầy duyên cá nước.
Xin dưỡng phụ cậy người mai ước, lễ tương cầu cho ô thước gặp nhau, đừng nê chi kẻ khó người giàu, mà phân áo rẽ bâu tội nghiệp. Nếu lỡ phận con nguyền cả kiếp, chẳng thèm vui sum hiệp với ai, hễ cùng nhau vả tiếng một ngày, ôm cầm lại dứt dây sao phải.
Lời cha nói con không dám cãi, nhưng mà xin lượng cha nghĩ lại con nhờ, tính giùm cho sum hiệp tóc tơ, kẻo lòng trẻ ước mơ đêm trắng.”
“Lòng con quyết lẽ nào cha chẳng, dẫu muôn ngàn cay đắng cũng cam, nực cười thay con tạo khéo vơ quàng, thậm trách bấy xích thằng buộc lãng. Sau dầu có lứa đôi chẳng đáng, con mựa đừng trách lẫn vì ai; để rồi cha cậy mặt làm mai, tương lễ kết duyên hài cho trẻ,”
Bây giờ mới tới phiên Thợ vẽ, sắm định xong lựa kẻ mối mai, chọn ngày thìn trong tháng mười hai, bưng rượu nhạo trầu khay đi nói. Cứ giữ việc làm y theo thói, bỏ trầu cau lễ hỏi dâng liền, định ngày hai mươi bốn sánh duyên, anh hùng với thuyền quyên hiệp cẩn.
Ái Nhơn mới lo bề chưng dựng, người tới lui xem những viên quan, ngoài đèn ly đèn giấy có hàng, trong xích tụi kim tòng hực hỡ. Lục bình cặm trăm hoa đua nở, quả tử chưng nhiều thứ trái cây, quần –bàn thêu song phụng chớp bay, cổ – dổng đúc Kì Lân ngồi giữ.
Liễn cẩn mười một chữ, chưn đèn sáp lăng đôi, mùi hương xông ngao ngát vô hồi, hơi rượu trắng phất phô nực mũi. Lồng căng chấn treo trên xích tụi, bàn vọng thì kiếng giọi bóng hồng, cửa buồng treo màn nhiễu thêu rồng, ván gõ trải chiếu bông dệt phụng.
Gần bên cửa có chưng bàn vọng, cũng tiền-bàn-cổ-dổng như nhau, bên hữu thì hòm ấn với bữu đao, bên tả thấy bộ đồ ngũ sự. Kế lấy đó một bàn lớn dữ, khảm trải trên bông sứ rải cùng, ly xấp hàng rượu đủ thứ dùng, Tô-nê mới để chung quanh đó.
Tả với hữu hai hàng ván gõ, ô Gò –Công đủ bộ rất sang, một ông voi đứng giữa kình càng, chín con gối nằm ngang dựa ngửa. Bộ kỷ cẫn chén trà chung chứa, bình tích đầy chè lựa thứ ngon, quả chi đây mà ngăn hết ngăn còn, dường như thể bon-bon có phải?
Không, ấy là nước của người để đãi, khổ qua cùng củ cải với thơm, mấy ngăn mà ngó thấy sạch trơn, là gừng bí ngon hơn hên ết!
Hai bên vách tương tranh vẽ tuyệt, giá trăm đồng người biết chẳng chê, đờn kìm, tranh, cò, độc đủ nghề, kỳ, thi, tửu ngỏa nguê dạ khách.
Ngoài hàng ba ghế bàn phải cách, đôn để bồn cúc bạch, cúc vàng, đèn khí treo ngay giữa mỗi bàn, trên quạt máy coi sang biết mấy. Dầu cho những bực nào dòm thấy, cũng chịu rằng dọn vậy là xinh, nhóm họ đương thiên hạ dư nghìn; nghĩ tại cái thế tình rất mị.
Thấy nhà giàu thì vị, khó lại thị lại khi; ô hô, phải Ái Nhơn là kẻ hàn vi, không thịt rượu ai đi tới đó!!! Hèn chi lời tục ví tai nghe đã rõ, sang thua giàu nào có sai đâu, cuộc đời hay lấy bạc làm đầu, tiền vi nghĩa là câu sách để, khuyên đồng bang hãy xem thời thế, buôn lấy lời là kế lâu dài, đừng bo-bo thắt miệng túi hoài, nằm mê giấc như say ra khật.
Tới ngày cưới xe hơi đậu chật, Ái Nhơn bưng trang vật với đèn, trên đầu thì bịt cái khăn đen, địa xanh lót kiếng sen làm áo; quần châu – xá mới may tinh hảo, mang giày tàu chơn rảo lên xe, họ gái trai ăn mặc hoa hòe, già thủ thiếp nhỏ khoe màu sắc.
Chuỗi hột vấn tay đeo neo đặt, trên đầu thì trâm giắt nhành rung, má-miến-bầu hạp nhãn vô cùng, thêm son phấn tư dung thêm đượm. Cổ đeo chuyền có con bươm bướm, bâu áo vàng mới nhuộm rất xinh; dây thêu cườm thêm vớ trắng tinh, tay đậm đuột móng inh như sáp.
Bà già cà thảy đều áo cập, gái đương dòng thì sấp mớ ba, ngoài mặc hàng sô-cô-la, trong hường đọt cùng là bông phấn.
Bầy trẻ nhỏ đua chen rập rận, bọn kéo xe ngơ ngẩn đứng nhìn, bên xóm giềng thiên hạ dư nghìn, tựu trước ngõ hàm thinh trơ mắt. Xe rút chạy áo màu phơ thất, ngọn gió lò chất ngất mùi hương. Thoát ngang qua các nẻo các đường, người trong chốn phố phường xem chật.
Tới ruộng thấy mục đồng mừng cười ngất, trầm trồ khen xinh thật là xinh, “bọn ở trai” tất cả cũng đứng nhìn, xầm xì ước phải .. mình .. được .. một? Nói gì mấy tay Công tử bột, dâm tâm thường gặp tốt thì mê, cơ khổ thì thôi, vụt chạy theo sau đánh đeo xe, lấy làm khoái dựa kề đít phấn !!!
Đi tới ngõ máy xe vừa chận, có người ra tiếp dẫn họ dương, nhà Anh Cô nghèo khó mà thương, trên nóc giọi bóng hường sáng hoắc. Phận đơn chiết có ai sắp đặt, hai mẹ con dọn sơ sài che mắt thế gian; chánh giữa nhà cũng vọng một bàn, trên lại có cái trang thờ Phật.
Đệm buồm kéo phía sau làm vách, tượng liễn xem đã rách te tua rồi, dựa bên giường là chỗ vong, trên có trải một đôi chiếu lát. Kế một bàn phía trác có cặp chưn đèn trắc nứt đàn dâng, dưới không treo quần-bàn, lư hương trống khói nhang bỏ vắng. Hai bên ván trải đôi chiếu trắng, gối rơm bày đâu đặng hai ba, quả mức thì thấy những chà là, ngó vào kỷ chén trà thiếu bộ.
Chừng hai họ vừa ngồi yên chỗ, mắt nhìn nhau mà tỏ ý khi, ông mai liền sắm sẵn lễ nghi, xin nạp sính kịp thì kẻo trễ. Dỡ quả ra rồi kể, năm chục đồng dùng để thế heo, đồ nữ trang hiện một đôi neo, với cà rá đeo tay nhận ngọc. Thêm một nhánh trâm rung giắt tóc, với đôi bông nhận hột kim cang, bạc đồng đi đủ hai ngàn, lại với chuỗi vàng bốn lượng.
Kể đủ món rồi bưng vào trướng, cho Anh Cô sửa soạn điểm trang, xong việc rồi sắp đặt cỗ bàn, đãi hai họ đưa nàng xuất giá.
Về tới thấy chật đàng lấp ngả, người tữu coi đông đã nên đông, xe vừa ngừng rước họ vào trong, ngoài pháo nổ đùng đùng như sấm. Trà rượu khuyên mời chẩm hẫm, chuyện trò gởi bẩm êm hòa, bây giờ ra làm lễ ông bà, cùng là lạy mẹ, cha, cô, bác.
Anh Cô thiệt là tay quốc sắc, gái hồng nhan thấy mặt thất kinh, tiếng xầm xì khen tốt khen xinh, quốc sĩ thảy động kinh mắt chói. Tới đây mới nghe lời người nói: “Cậu Ái Nhơn giỏi thiệt phải chơi, chốn phiền ba có thiếu chi nơi, vô sàn dã tìm người cung nguyệt.”
Lễ lạy đà xong việc, Nhơn với Cô đi riết vô phòng, à-há nhập phòng! Vợ chồng mới lên đèn làm lễ, lạy ông tơ bà nguyệt xe săng, đừng khuấy chơi bắt mối vơ quàng, làm đến đỗi xích thằng điên đảo.
Vừa xong lạy Anh Cô ra áo, xuống phấn trù xem ráo việc nhà, từ đờn ông chí những đờn bà, tới con nít cũng là mê mặt. Ai cũng tưởng gái quê dốt đặc, có dè đâu nhan sắc phi thường, việc bếp nồi thông thạo mọi đường, chữ tứ đức chẳng nhường ai cả.
Khuya lại tiệc đãi đằng xong xả, họ đương dâu đều đã ra về, dọn trong ngoài ngăn nắp chỉnh tề, mới vào trướng lo bề hiệp cẩn, chồng vợ bởi xích thằng buộc vấn, câu tề mi cử án hằng ghi, trầu rượu đạm làm lễ tương tri, xin quân tử nghĩ vì chút phận.
Rằng: “Thân bồ liễu yếm mang quần vận, trao má hồng cho đấng anh hùng, nghĩa vợ chồng xin khá rộng dung, chặt lỏng thiếp nhờ cùng lượng cả.”
Anh Cô trỗi mấy lời tao nhã, Ái Nhơn nghe mừng quá đỗi mừng; “Ta vẫn biết phận Các Đằng dựa bóng tùng quân, há chẳng xót chút thân bồ liễu. Nàng mựa chớ ba lo bảy liệu, ở sao cho trọn diệu xướng tùy, ta thệ lòng vàng đá tri tri, trăm năm nguyện gắn ghi vào dạ.”
Lòng quân tử Anh Cô liền tạ, đó rồi …. rồi … giọt … mưa … mây … mới … đánh … đổ … đóa … trà mi (sic) …. Hạch ôi!
Bấy lâu nay ong bướm lấp đàng đi, bây giờ … bây giờ … úi-châu-ôi! … hèn chi! …
Má thằng Lát nói: Lấy chồng thiệt hiểm nguy quá đỗi!!!
Nghĩ cũng tại nơi mình muốn vội, lỡ rồi, … lỡ rồi, … thôi! … nước tới trôn phải lội biết sao? Phải hay … động phòng mà gan ruột lộn nhào, thà mà, mang chuỗi hột lần vào cửa Phật!!!
Kim châm dạ lẽ nào không biết nhức, nhẫn mà cắn răng cho trọn bực Hồng quần, cuộc trăm năm biết bấy nhiêu lần, mà chác giận mua hờn cho phải!
Trách con bướm đã qua rồi còn lại, làm cho nhụy đào thơ giọt chảy cánh bầm; trót năm canh chống mắt ôm cầm, cho thỏa dạ tri âm từ ấy!
Sáng ngày ra cả hai không muốn dậy, mười giờ còn nằm ngáy pho pho, lạ chi điều ngao nọ gặp cò, mà phải nói vòng do cho nhọc. trẻ nhà hận dạ trường muốn khóc, Ái Nhơn phiền trách móc canh thâu, cũng vì tớ mỏi mê trông sáng cho mau, chủ lại khác ước giờ khắc qua lâu cho phỉ. Chừng thức giấc Ái Nhơn toại chí, còn Anh Cô yếm lụy chỉnh khôn, lạ thay; hai chơn nay sao lại mỏi run, đau đớn bấy không cùng dời bước!
Trai mừng đặng Kiều Ô gặp Thước, gái nghĩ rầu vô phước lấy chồng; phải hay vầy trực tiết cô phòng, hơn là chịu đau lòng xót dạ!
Lệ nhập phòng ba ngày đã quá, Anh Cô về thăm má với chồng, nghĩa mới mà coi bộ mặn nồng, mặt hớn hở trong lòng oan hỉ. Trách “Má thằng Lát thiệt là con quỉ, đem điều phi tiếng mị phỉnh ta, lấy chồng vui sướng quá đi mà, dại, mang chuỗi hột áo già cực xác!!!”
Ngày tháng qua như tên thấm thoát, tình vợ chồng mặn lạt biết bao, bữa kia nằm đàm đạo cùng nhau, Nhơn mới hỏi trước sau cho cạn. “Từ buổi đầu đến ngày vầy bạn, tới lui thường chưa hãn sự gia, biết mẹ mà không thấy mặt cha, xin nàng hãy phân qua minh bạch. Vẫn biết, mẹ góa bởi vì cha sớm tách, tình thâm đành phân cách âm dương, chẳng hay buổi thời sơn còn ở tại đường, có dư chức thôn hương cùng chẳng?”
Cô nghe hỏi hàm thinh lẳng lặng, sắc buồn dường như quặng lòng đau, muốn hở môi miệng lại nghẹn ngào, ngần ngừ biết lẽ nào phân giải. Nhơn thấy vợ có hơi ngần ngại mới đem lời trái phải bày ra, rằng: “Đôi ta nghi thất nghi gia, gần còn nệ chi xa mà dấu. Hễ hai họ kết thành giai ngẫu, thì chớ quên xấu bậu xấu qua, chẳng phải tuồng trăng gió gọi là, không biết nể mà phòng sợ.”
Cô nghe thấy lời chàng đã mở, hết ngại ngùng bợ ngợ tiếng phân, đôi ba phen mở miệng lại ngừng. Nhơn hỏi riết mấy lần mới tỏ, rằng “Buổi thiếp lọt lòng chẳng rõ, chừng lớn khôn nào có thấy cha, mẹ cùng con hôm sớm vào ra, dưa muối chịu trải qua ngày tháng. Thiếp cũng ngỡ mẹ góa bụa vì cha quá vãng, lại thêm mắc lo nghèo sớm mãn tối qua, cho nên không hay ngồi đàm luận gần xa, cũng chẳng hỏi mẹ già sự tích. Một bữa nọ bóng hồng vừa trịch, mẹ con ngồi xúm xít trồng rau, thấy hai chim cặp trẻ nhành cao, động tình hỏi trước sau cạn kể.
Rằng: Loại chim chóc còn đủ cha đủ mẹ, phận tôi sao như thế vậy mà? Từ lọt lòng chẳng biết mặt cha, hay là trẻ nước sa vớt đặng?
Mẹ thiếp ngồi gục đầu lẳng lặng, hình như nhắc càng thêm cay đắng nên buồn, thảm thay! Trơ mắt nhìn đôi giọt vội tuôn, ngó mặt thiếp rồi buông tiếng khóc.
“Con ôi! mẹ nghĩ lại con có cha dường như cô độc, vợ có chồng khác thể Vọng phu, ôm đoạn sầu hè mãn qua thu, tin cá có biết đâu mà nhắn. Nhắc đến lúc dạ càng cay đắng, nghĩ nỗi niềm ruột quặn lòng đau, thuở mẹ chưa tuổi chất trên đầu, dung nhan mẹ ai hầu sánh kịp. Nhà chẳng giàu, mẹ hằng thủ thiếp, chất phỉ phong trinh tiết một màu, ngày kia, lỡ bước đường vắng vẻ biết bao, một mình mẹ trước sau không kẻ.
Dè đâu, ngày rủi lấp năm may xui tệ, khiến gặp tay vô lễ ô dâm, hoa thơm kia ong bướm vọc dầm, đành cho phận các lầm ngọc trắng.
Tưởng qua rồi hết hồi cay đắng, nào hay đâu dây vắn tình dài, gây mối sầu cho mẹ thọ thai, ôm bụng chữa tháng ngày bận bịu, điều sĩ tiết mong mang đành chịu, chịu cho mình mất hiếu mất trinh, cực nỗi sợ mẹ cha mang nhục với thế tình, cùng là bị ra giữa tụng đình tra khảo.
Bởi vậy mẹ mới tìm vào Chợ gạo, cát lều tranh nương náu tháng ngày, bỗng tới ngày nhụy nở hoa khai, một mình mẹ không ai chiếu cố”, nói tới đó lụy hồng vội đổ, mẹ khóc rằng cam khổ biết bao, chuyển bụng ngồi nhăm mặt chịu đau, nào ai đến giùm sau đỡ trước, thảm đến đỗi, mụ gần đó mà không người cậy rước, giường cũng không, y dược cũng không, thiếu làm sao cho đến nồi xông, tiền trong túi một đồng chẳng có.
Chừng sổ lòng con la khóc ó, mẹ ngồi nhìn lụy nhỏ chứa chan, trời ghen chi cái phận hồng nhan, đày đọa chịu cơ hàn như thế! Tiêu hột thiếu, thiếu luôn tới nghệ, ra như tuồng gà đẻ khác nào, vậy cũng chưa đàng gọi là đau, như vầy thiệt gan nào chẳng động.
Lâm bồn rồi trong lòng đã trống, ngày không ăn đói bụng biết bao, nghĩ nỗi niềm càng kể càng đau, coi lại gạo trong bầu đã sạch. Run lập cập tay thì lần vách, xuống quơ nồi quơ trách nấu ăn, ăn làm sao cho đặng củ nần, nhưng mà gặp lúc đói khó phân ngon dở.
Lần tới xóm xin cơm ăn đỡ, xóm động tình không nỡ bỏ qua, mẹ rằng: “Phận mẹ dầu hồn xuống diêm la, thương cho trẻ không cha mất mẹ”. Ngày tháng qua như tên rất lẹ, hành khất mà nuôi trẻ biết đi, mẹ lần dò tỉa bắp trồng mì, tay bồng trẻ tay thì xách nước.
Tuy chẳng đủ cũng cho rằng được, mẹ cùng con sau trước cút cuôi, thôi đã đành thân mẹ lôi thôi, cam phận bạc như vôi mà chớ.”
Nhơn nghe thuật mấy hồi sực nhớ, nên muốn tìm ra cớ mới là, nghĩ cho vợ mình quả thiệt không cha, lẽ khi gái ông già gởi của.
Nhơn nghĩ vậy mới hỏi phăng tới nữa: “Vậy chớ mẹ có nói tên người mà mẹ chung vui chửa bậu chăng? Có lời hậu chi trong lúc gió trăng, có trao của gọi rằng tín vật? Người ấy có tỏ phân gốc gác, bây giờ đây có nghe người thất lạc hà phang? Bậu với qua kết nghĩa tào khang, còn chi nữa nghi nan mà dấu. Dầu khó nhọc qua cũng gắng công cùng bậu, tầm kiếm về phụ mẫu đoàn viên.”
Cô nghe qua chiếp miệng tiếp liền: “Mẹ chẳng rõ sự duyên chi cả. Bướm rời hoa rồi phân hai ngả, nút nhụy hồng ong rã đàng đi, không một lời giả nghĩa tương tri, cũng không để vật chi làm dấu. mẹ nào tưởng là câu giai ngẫu, nằm cắn răng dau thấu về đâu, trông cho hết hồi dồi vập chiếc thuyền câu, trông cho mãn lúc hoa sầu nắng hạ. Ấy là mẹ gặp lúc cùng chẳng đã, có cần chi hỏi sạ gia người, dè đâu, chịu mễn mang nên rất hổ ngươi, thân như gà đẻ rồi bươi nuôi trẻ.
Từ ấy nhẫn nay, trống xếp cánh nào lo cơn sanh đẻ, xét lại càng sự thế buồn tanh, cha thiếp là một đấng bộ hành, nào có rõ hà danh hà tánh. Cũng chẳng biết hà quê xa lánh, cũng không hay ấm lạnh dường nao, đặnh như vầy thiếp cảm biết bao, đâu dám chịu công lao phu tướng.
Dầu chàng có hết lòng đoái tưởng, cũng khó toan tìm lượng nhạc gia, đốt ngọn nguồn kiếm ngách sao ra, thôi, thà mà để cho thiếp cam phận rủi mất cha còn mẹ.”
Nghe vợ bày trước sau cạn kể, Nhơn thầm cho như thế khó toan, nhưng mà muốn tận tường hư thiệt bành tàng, chàng mới hỏi thăm nàng cho thấu: “Không tin để cũng không lời di hậu, vậy mà mẹ tháy mặt người có dấu chi chăng? Thấy người còn để tóc bịt khăn, hay là tập theo thói Lang sa đội nón? Gò má người thỏn thỏn, hay là gương mặt tròn tròn, phận đôi ta là điệu rể con, âm thầm để nước non âu hãng.”
“Thưa phu tướng, hoa ngộ bướm quá hồi chạng vạng, khó cho tường hình dạng mặt mày, lại thêm mẹ căm hờn gặp cuộc chẳng may, dường như thể trêu cay ngậm đắng.”
Nhơn nghĩ: “Như vậy thiệt khó mà tìm ra cho đặng, biết làm sao phân trắng với đen, bỏ qua không đành phận nhỏ nhen, bằng muốn hỏi biết đâu quen mà hỏi.”
“Ta chẳng nệ tất công tìm tỏi, nàng khá tua phân nói rõ ràng, hồi tuổi xuân mẹ có nữ trang, đeo trong lúc bên đàng lỡ bước? Khi nàng lớn, mẹ có cho món chi làm dấu trước, hay là mẹ còn đeo mà nàng thấy được rõ không?”
Cô đáp rằng: “Của đáng mấy đồng, mà chàng phải nhọc lòng muốn biết.”
“Không, câu phú quới tợ môn tiền tuyết, dễ đâu ta dốt việc nhà sao, nàng mựa nghi ta muốn bi61m bao, trong gia đạo nghèo giàu đã chán. Ta muốn hỏi tâm tình cho cạn, kẻo lỗi lầm nguyệt rạng khôn soi, bởi e nàng chịu phận thiệt thòi, nào có phải móc moi tầm vít.”
Cô rằng: ‘Của mẹ cho thiếp đeo khít rịt, để lưu truyền dấu tích ngoại tông, cho hay không giá đáng mấy đồng, song của báu thiếp không rời phút.”
Nhơn mừng lòng xin coi thử chút, cho biết trong hay đục một bề, chừng xem ra hai chữ G.C., vùng nói lớn “Hiền thê quả quyết.”
Chuyện thình lình Anh Cô nào biết, tưởng đâu chàng nghị việc ngoại tình, cho nên nàng sợ đã thất thanh, trơ đôi mắt hàm thinh mà ngó. Chàng vui tợ hạng phùng cam võ, nàng ngại ngùng như chim nọ nghi cung.
Ái Nhơn mầng ôm vợ mà hun, rồi bày tỏ khúc trung cho hãn. Nghe nói vậy lòng chưa quyết đoán, ngồi ngẩn ngơ bán tín bán nghi, tỉ như mộng Huỳnh lương thấp thoáng chốn phòng vi, nghĩ như giấc chiêm bao mộng mị. Của vô cớ có chi rằng quí, không phước thì cũng bị họa lây; ai ở đâu lại gởi của nầy, mà chàng nói lạ tai quá vậy?
“Nàng chớ khá đem lòng tin quấy, có đủ bằng mựa lấy làm chơi, như vầy đây thiệt của tìm người, hết trông đợi chim trời cá nước. Như nàng chẳng tin lời ta được, nàng phải mau về rước mẹ qua, giáp mặt rồi nguồn ngọn kể ra, nàng mới biết lời ta thiệt giả.”
Nhơn dứt lời Anh Cô vội vã, dạy thắng xe nhà má bôn ba, rước mẹ già đàm luận tin cha, kẻo từ ấy tha nha thiết xỉ. Mẹ thấy con tấm lòng hoan hỉ, Cô mới bày tự thỉ chí chung, mẹ già nghe mừng rỡ không cùng, vầy đoàn trẻ gia trung xá kíp.
Về tới cửa Nhơn ra nghinh tiếp, rước vào trong trà nước mời khuyên, nghỉ đôi hồi mụ tiếp hỏi liền. Nhơn mới dẫn căn nguyên cạn kể. “Ngày nọ có thơ mời ngu tế, tới gia trang định kế liệu toan, khai phong xem lạ hoắc hai đàng, thêm chưa rõ cơ quan mánh lý.
Người nguyện vậy lẽ nào phụ ý, con gượng lòng cật ký trải sang, đến chừng vào tới của gia trang, thấy một bị trên sàng đầu bạc. Gặp mặt trẻ ngài sa nước mắt, than rằng lâm bịnh ngặt đã lâu, mời trẻ ngồi rồi kể đuôi đầu, rằng nghe tiếng bấy lâu mới thấy.”
“Ừ, con nhắm tuổi tác người chừng mấy, ra làm sao nói lại thử coi.”
“Thưa, tướng mạo ngài phốp pháp hẳn hòi, ngài chịu ở lẻ loi từ ấu. Tuổi ngài đã đầy năm muo8i sáu, mà xem trong gia đạo vắng hoe, cho hay giàu của chất muôn xe, song chẳng có cháu con nối nghiệp, không thú thê cũng không mãi thiếp, cận địa rồi sự nghiệp cho ai, ngài nghe tôi đủ đức đủ tài, nên ngài muốn nói vài lời trối.
Rằng: Buổi nhỏ hàn vi lặn lội, trôi cồn nầy rồi nổi vịnh kia, đã không nhà nương ngụ sớm khuya, năm chí cuối làm thuê làm mướn. Một bữa nọ gặp nơi lộ thượng, gái hồng nhan vô lượng giá vàng, khởi tâm dâm hóc vắng làm ngang, đè nàng xuống vầy đoàn trăng gió. Rồi hai ngả phân tay từ đó, không rõ ràng tên họ là chi, chẳng biết tên quê quán là gì, mà lão cũng bất tri phụ mẫu.
Lão có hỏi mà tại nàng nói dấu, nên lão không hãn thấu sự nàng, biết có một điều tay nàng đeo cà rá bằng vàng, có khắc nổi rõ ràng hai chữ. Cậy ánh diêm rọi tay coi thử, song cũng không hiểu tứ người đề, thấy phân minh hai chữ G. C., nào có biết dấu chi mà định.
Bây giờ lão đã lâm trượng bịnh, khác nào như trái chín trên cây, sự nghiệp nầy bỏ lại cho ai, nên lão mời trí sĩ tới đây mà trối. Một mai lão hồn về chín suối, ráng tìm cho ra mối ra mang, của sớt hai giao lại cho nàng, còn phân nửa lập tràng giáo hóa. Rủi mà tìm không ra tin cá, bố thí cho hết cả gia tài, hoặc giúp người tàn tật ăn mày, hoặc nuôi trẻ chẳng may cô độc.
Đọc lời trối rồi nằm mà khóc, thêm bịnh già trằn trọc không yên, nghĩ đến thân tấc dạ càng phiền, phiền cho phận vô duyên xấu phước. lãnh gia tài mà tìm không được, tưởng duyên người thuở trước đã qua, nào hay trời khiến hiệp một nhà, nào có phải đâu xa cách dặm.”
Mụ nghe dứt ngồi mà thấm gẫm, gẫm lại rồi càng thấm càng đau, vậy cũng rằng duyên nợ buổi đầu, vậy cũng gọi là câu túc trái. Trách người chẳng có lòng tưởng đoái, gây nợ nần rồi lại bỏ đi, chẳng nghĩ câu phong võ bất kỳ, nào xót phận nữ nhi nan hóa. Tình máu mủ mụ mang trong dạ, nỡ theo tuồng bướm bạ vườn oan, mụ lâm bồn chi xiết gian nan, chịu nhiều nỗi cơ hàn thới quá. Chàng lắm lúc an phần sang cả, nay ăn năn thì đã lỡ bề, nghĩ chút tình cũng gọi phu thê, nghe chàng đã về quê mà cảm.
Còn của cải của chàng gởi gấm, mẹ con ta đâu dám chen vào, chữ rằng nhơn phi nghĩa bất giao, của phi nghĩa lẽ nào lại thủ. Thà cam phận thú quê lam lụ, hơn là lãnh của nầy vi phú vô danh, mặt tình con đem hết làm lành, mẹ tự quyết chẳng đành tọa hưởng.
Nhơn nghe nói mười phàn kính trượng, lòng phụ nhơn độ lượng hải hàm, thấy của tiền mà chẳng biết ham, đành vui chữ y tham lam lụ. Mụ mới hỏi qua mồ vô chủ, xin dẫn đàng lên thủ viếng thăm. Nhơn đề huề tới chốn kiếm tầm, dùng tửu thực hương đăng tế mộ.
Xe máy hơi trải sang đường bộ, chưa mấy giờ tới chỗ rồi đây, xem tư bề Nam Bắc Đông Tây, vườn rậm rạp bóng cây che phủ. Chẳng phải chốn non xanh vượn hú, nhưng mà cảnh buồn dường như thú lâm tàng, gió lai rai như khóc như than, nhành xao động xem càng đau dạ, chỗ thì cỏ mọc ngọn đà cao quá, chỗ thì rụng đầy những lá xanh vàng, cảnh đành cho là cảnh vườn oan, loài dây bạ bò ngang vấn dọc.
Một gò đất cỏ xanh đã mọc, dựa đường mòn bên góc hướng tây, dưới chơn thì có mấy gốc cây, trên đầu nước chảy ngay vô đó. Lá khua vang vi hiu hắt gió, chim lẻ đôi tiếng đổ muôn ngàn, nước cuộn giòng thấy đáy trong ngần, cá đua lội sáng trưng đôi mắt.
Mộ bi chữ son bia tạc, đề tên người mạng bạc từ đây, mụ lão ngồi chíp miệng than dài, người chín suối có hay chăng nhé, “Duyên xui gặp, gặp rồi lại rẽ, rẽ hai đàng để kẻ mển mang, trách vì ai gây cuộc trái oan, rồi bỏ đó lỡ làng chút phận.”
Mụ nghĩ lại mụ càng thêm giận, giận ai làm bạc phận bấy lâu, mưới mấy năm chát thảm ôm sầu, năm canh lụn lo âu tấc dạ. Dầu chẳng xét cho rằng vàng đá, cũng nghĩa tình bướm bạ nhành hoa, sao không suy máu mủ cũng là, mà nỡ để cho già luống chịu, nhà nghèo khó món chi cũng thiếu, chốn lạ lùng lúc yếu nhờ ai, ngồi ru con giọt vắn giọt dài, xét lại phận như loài gà mái. Trống đạp rồi bao giờ tưởng đoái, thỏa tâm tình vui gáy ó o, mãi rũ lông bươi kiếm cho no, cù tác đẻ liệu lo lấy phận.
__
Có câu: Tiền tài như phấn thổ, nhơn ngãi tợ thiên kim. Nhiều vị giải nghĩa: tiền tài như bụi, nhơn ngãi như vàng, e có chỗ lầm, theo ý tôi hiểu nghĩa: tiền tài như phân đất, vì đất mà không phân thì đất xấu như người mà không của vậy.
Nhơn ngãi ví ngàn vàng, ở đời mà thiếu nhơn ngãi thì cũng như đất mà thiếu phân, người mà thiếu của khó nên đặng.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
“Năm trường chịu hết hồi lận đận, con lớn khôn gầy dậng lứa đôi, hay tin chồng đã thác rồi, nghe lời trối bồi hồi tấc dạ. Tuy là đó lỗi niềm vàng đá, nhưng mà gần tị trần tri quá cũng hay, dặn người tìm giao nửa gia tài cho thê tử lạc loài đất khách.
Nghĩ hờn trước khôn cùng trộm trách, trách chàng không tầm mách hoa rơi, xét ơn sau ruột rối bời bời, nên tới mộ đôi lời than tiếc, nơi chín suối hồn linh có biết, chốn dương trần cách biệt thê nhi, chén trà thô gọi chút xướng tùy, chung rượu lạt thê nhi tam cúng.”
Mụ than dứt ngồi mà khóc rống, Anh Cô nghe cảm động lòng vàng, trước mồ cha cặm một lọn nhang, lầm thầm vái mắt chan hột lụy. “Cha ôi, tình máu thịt lẽ nào không nghĩ, nhưng bởi phận đào thơ chẳng rõ thỉ chung, buổi lọt lòng cho tới lớn khôn, một mình mẹ với con hẩm hút.
Con thầm nghĩ phận con côi cút, mới lọt lòng trong đục đâu tường, chừng nghiêng vai chung gánh cang thường, nghe nhắc tích thung đường mới biết. Dầu hai ngả âm dương cách biệt, xin chứng lòng thành thiệt rể con.” Cô vái rồi đứng khóc nỉ non, Ái Nhơn cũng héo don gan tấc.
Than chưa dứt bóng hồng hầu khuất, lụy không ngừng mặt nhựt đã chinh, đề huề ra phản bộ lộ trình, nơi dặm thẳng sầu tình nan giải. Đàng vắng vẻ không người qua lại, chim hôm đà ba bảy vầy đoàn, gió bặt tin cây lá ngủ lặng trang, sao lố mặt ngổn ngang thức bóng. Bên triền lộ mênh mông đồng rộng, dọng nhái than mà động tấc lòng, ngựa ngán đàng bước nọ biến dong, tiếng dế khóc não nồng cha chả!
Họa đâu tới nửa chừng đàng sá, biến đâu sanh rất lạ lùng thay. Bánh xe đang dong tuổi đàng dài, có kẻ chận ra tay sát hại. người tích đức trời còn tưởng đoái, phước nhiệm mầu dành lại cho chàng.
Lát lẹ chơn nhảy xuống cản ngang, giựt độc kiếm kẻ gian tại thử. Đá một đá gian nhơn ngã tử, nằm giữa đàng hơi thở hết trông, tưởng chàng đà hồn xuống chín sông. Nhơn xem thấy tâm trung kinh hãi.
Vợ chồng bước xuống xe coi lại: “Ủa nầy Bạch tỉ Thoàn theo hại ta đây, vì tham tài oán nọ đã gây, nguyền chẳng kíp thì chầy trả đặng. Ta giữ một lòng ngay dạ thẳng, sao chẳng suy kết oán theo hoài, ta nghĩ là nghĩ tình ai chung cha với ai nên không nỡ dĩ tài hại mạng.”
Cô nghe trách thỉ chung nào hãn, hỏi chồng sao than vãn lạ lùng, Ái nhơn liền bày tỏ khúc trung, sự tích mẹ kết cùng Nghĩa Hữu. Trôi giữa biển nhờ người vớt cứu, cũng bởi lòng Nghĩa Hữu bất nhân, kể nỗi niềm phu phụ phi ân, làm đến đỗi mẫu thân vong mạng. Chuyện thị Hoa lâm tòng mắc nạn, nhờ tiều phu gặp đặng cứu về.
Kể những hồi Thoàn đắm nguyệt huê, dụ hiền nữ đề huề lén bước. Rồi lại chẳng nghĩ tình sau trước, Long dứt đàng ô thước lại qua, ngẫu nhiên xui nàng lại gặp ta, mướn phòng ở ngang ga xe lửa. Thoàn không bỏ còn tìm theo nữa, ngừa canh gà vào cửa cướp duyên; đâm ta hồn tưởng xuống huỳnh tuyền, may còn hãy ngồi miền dương thế.
Cướp đặng rồi lại sanh lòng tệ, bỏ nàng đau thệ thế khốn thay, nàng nằm trơ không chút đoái hoài, gặp ta mới ra tay tế độ, chôn cất nàng đã an phần mộ, Bạch tỉ Thoàn nào có biết đâu, thời trời xui cho cuộc bể dâu, thiện ác tháy đáo đầu có trả.
Lễ Tân Thị Sài Gòn vui quá, người lục châu tựu đã nên đông, buổi chiều kia trời khuất bóng hồng, gặp Thoàn tại quán trung Tân Thị. Ngộ tiền cừu oán kia chưa phỉ, hường nhan đâu chăm chỉ bước vào, lầm lũi đi không nhắm trước sau, cùng Bạch Tỉ âm hao bày tỏ.
Đến chừng nàng xây lưng ra ngó, thấy mặt ta nhìn rõ hỏi liền: “Chủ thiếp đà hồn xuống cửu tuyền, ai ngồi đó như ảnh truyền bia tạc.”
Nàng mới hỏi, ta e lầm lại, chừng tỏ bày sau trác mới là biết hãn nàng tên thật thị hoa, ở nô tỉ nuôi ta thuở ấu. Nhờ nàng thuật chuyện nhà mới thấu, bằng chẳng ai tiết lậu mà hay, nàng mới phân tới chuyện gia tài, mẹ ta thác về tay Nghĩa Hữu.
Bịnh trầm trệ hết phang giải cứu, nàng ép lòng Nghĩa Hữu di ngôn, nàng hối ta sao cũng phải bôn, làng Long hải ruổi dong tới đó. Tờ di chúc chữ đề tỏ rõ, mau dời chơn mựa chớ nghi ngờ, đừng để cho những kẻ bá vơ, vô cớ đặng hưởng nhờ phụ ấm.
Ta nghe lời lên xe tách dặm, sự nghiệp nhà mới nắm lại đây; Thoàn tức mình thù nọ mới gây, tụng đình quyết mướn thầy kiện cáo. Thoàn lại tính âm mưu sát hại, ra khỏi tòa chận nhảy tới đâm, hễ thảm họa diệt cũng thảm họa, chàng mắc án giam cầm nhà phạt. Ở tù rồi ra không cải ác, quyết theo ta tận sát rửa hờn, bởi vì câu thiện giả thiện hườn, khiến cho gã gặp cơn tai hại.”
Nhơn dứt lời Thoàn đã tỉnh lại, thấy Ái Nhơn sợ hãi biết bao, nghĩ việc mình sực nhớ đề lao,muốn vụt chạy biết sao mà chạy. Chẳng dè Nhơn có lòng quảng đại, kêu Thoàn mà phân giải sự tình, lại biểu Thoàn về ở với mình, đừng quen bước linh đinh đất khách. Việc lầm lỗi Nhơn không thèm trách, cũng không làm minh bạch giữa quan, Thoàn ăn năn theo tới gia đàng, đành nương dựa cho an thửa phận.
Anh Cô sợ Thoàn còn oán hận, khuyên Ái Nhơn cẩn thận kẻo mà, nếu chàng mong nuôi cọp trong nhà, quen hơi ác sanh ra ba miệng.
Lòng Ái Nhơn rộng dường như biển, chẳng thèm nghe mấy tiếng khuyên lơn, nghĩ cho minh chánh đường đường, trời nào để họa ương mà sợ.
Kể từ buổi kết duyên chồng vợ, đôi lứa vui lẽ ở bề ăn, Anh Cô đà kiết lũ nhâm thần, lần tay tính bốn trăng dư lẻ.
Buổi chiều nọ ngừa cơn mát mẻ, cảnh trời dường như vẻ rất xinh. Nhơn ngồi xe dạo khắp lộ trình, xem những việc thế tình giải muộn. Bên dốc cầu có người di xuống, sắc dợn dường nước cuộn ba đào, tóc cánh tiên, mắt chói tợ sao, trán chẳng rộng mày cao vòng nguyệt.
Má miếng bầu mà da tợ tuyết, răng như cưa miệng thiệt có duyên, hình dung dường vóc ngọc cốt tiên, nề nếp gái chính chuyên có một. Tay mũi viết móng dài đậm đuột, chơn mang giày chải chuốt biết bao, áo sô-cô-la tươi tốt khoe màu, quần lãnh trắng gió xao lưng rút. Che dù hàng thêu nhành bông cúc, tay vấn neo chận khúc hột vàng, cổ đeo chiền nhận hột kim cang, thêm cà rá hột xoàn nước chói.
Nhơn liếc thấy lòng khen thầm nói: “Cha chả! Gương đâu mà bóng giọi tới đây? Bạc ngàn cân không chuộc giá ngọc nầy, vàng trăm lượng khó vầy nhơn nghĩa đó! Phải mà đặng như trăng đưa gió, cho phỉ tình nguyệt thố ngó nhau, ai ra tay giúp mở cửa vườn đào, miễn cho được tốn hao nào kể!”
Nàng thời gấp bước đường sợ trễ, Nhơn thời mê không thế bỏ qua, mới quày xe theo riết tới nhà, nàng vào cửa số ba mươi sáu.
Nhơn lại qua ngơ ngáo, cực nỗi về áo não tâm tình, trở bánh xe nương bóng trăng thinh, noi theo ngõ Bà Hình giục vó. Man mát mặt lóng nghe dì gió, thổi lai rai như tỏ tin nàng, ngơ ngẩn lòng trộm liếc chị hằng, vặt vặt dường than tế ngộ.
Làm sao đặng tay đăng vầy đó, kẻo còn mơ lá gió nhành chim, làm sao cho chỉ lọt trôn kim, phỉ tấc dạ kiếm tìm giai nữ. Mãn mơ tưởng nỗi niềm tâm sự, quên coi chừng đàng sứ ruổi dong, lúc quanh qua Mặc-má-hồng đụng xe kéo vạy cong gãy gọng!
Tên kéo xe rộng bọng, kêu óng óng mã tà, biết mình lỗi Nhơn muốn êm hòa, mau móc túi cho năm đồng bạc!
Về tới cửa kêu thằng năm Lát ra mở xe, chàng thoạt bước vào. Nhơn tưởng hình mặt héo dàu dàu, chàng nhớ bóng như bào trong dạ. Biết cùng ai tỏ niềm tậm sạ, nằm không yên giục giã cơn sầu, cứ thở ra chắt lưỡi lắc đầu. Cô ngừa lúc anh thâu hỏi thử: “Chàng nay có việc chi tâm sự, giấc chẳng yên tư lự đêm trăng, hay trong mình chàng chẳng đặng an, xin chàng khá phân tàng áo lý.”
Chẳng dám tỏ việc mình riêng nghĩ, mới dối rằng mình bị nhức đầu; Cô mau tay mở tủ lấy dầu, rồi cầm quạt, quạt vào cho mát. Đâu dè nỗi chàng mê nhan sắc, nên đêm nằm nhắm mắt không yên, phải mà nàng rõ thấu cơ duyên, lẽ khi giọt máu ghen tràn chảy.
Chưa kịp sáng chàng đà thức dậy, dạo vườn hoa cho giải cơn sầu, mới kêu Thoàn tỏ hết đuôi đầu, rồi lại cậy bắc cầu ô thước. Thoàn nói rằng thiếu gì mưu chước, khó bực nào cũng được chẳng không, dẫu cho nàng là gái có chồng, bắt đặng tất hơi đồng cũng ngã. “Để một chập rồi tôi sẽ thả lên Cầu Bông coi ả nào đây, chuyện làm sao cũng nội đêm nay, hoa bướm ắt vui vầy một cuộc.”
Buổi trước Thoàn là công tử bột, nên mới là quen thuộc nhiều tay, ngừa cơn nầy oán hận trả vay, chẳng nghĩ cái ơn dày minh thọ. Lên Cầu Bông hỏi thăm tình gió, nhờ người bày mới rõ sự duyên, nàng nầy đây là gái Đạm Tiên, nào có phải chính chuyên chi đó. Tên của nàng là con bảy nhỏ, vàng với thao nào có chọn lừa; nghe hơi đồng lớn nhỏ cũng ưa, cậm chích bá sớm đưa tối rước. Tuy chưa làm nghiêng thành đổ nước, hại anh hùng lỡ bước ghe phen.
Thoàn tìm vào giả chước làm quen, rồi mới dạy trống kèn ăn nhịp. Bảy Nhỏ chịu rồi Thoàn mới tiếp: chừng hai đàng có hiệp nói vầy … Sau rồi chàng hỏi đến của nầy ….. thì nàng sẽ tỏ bày như ý ……… Làm như vầy taan thành nát lũy, nhưng phận nàng chung thỉ vẹn xong; khá gắng ghi mựa chớ ngại lòng, lỡ cơ hội khó mong gặp lại. “Tối bữa nay đồng hồ sang bảy, nàng ngồi xe bảo chạy Ba Hình, gặp mặt nhau đôi lứa trần tình, đem chàng lại gia đình chung gối.”
Thoàn d8a5n dò trước sau mọi nỗi, mặt giã từ chơn vội bước ra; những mãn còn bàn bạc gần xa, bỗng lố thấy cửa nhà rồi đấy. Trông thấy vội Nhơn mau chơn chạy, đón hỏi Thoàn oan trái ấy sao?
Thoàn đáp rằng có gặp má đào, lời êm thuận bỏ vào lòng dạ. Nghĩa tóc tơ đã đàng lòng gá, hên đêm nay đợi ngã Ba Hình; Thoàn bảo Nhơn theo dõi với mình, bảy giờ tối gặp tình trăng gió. Nhơn mừng tợ hạng phùng cam võ, phỉ tấm tình linh thỏ ngóng trăng, kẻo còn mơ tấm giọng ả Hằng, đêm trăng luống xốn xang tấc dạ. Ngồi mà đợi ngày giờ lâu quá, nghĩ buồn cho kẻ hận gia trang, xét ra rồi một tấc thiều quang, dài biết mấy dặm ngàn mà độ.
Chuông nhà thờ bảy giờ chưa đổ, Nhơn kêu Thoàn giục vó ra đi, tới Bà Hình nào có thấy chi, ngừng xe ngóng tâm bi bất tận. Chập lâu đợi Thoàn đà nổi giận, Nhơn thì ngồi ngơ ngẩn như say, bỗng chợt nhìn xe chạy như bay, còn nghi nỗi xe ai giục vó. Chừng lại gần thấy con Bảy Nhỏ, mới hết lo bề nọ nỗi kia, Thoàn để cho súng nọ nhìn bia, cửa vườn đợi khóa chìa hiệp mở.
Đôi lứa gặp vui mầng một thuở, bướm còn hơi mắc cỡ với hoa, hoa mở đàng cho bướm lân la, cười cợt giọng phiền ba với khách. “Chàng có tưởng mựa đừng chấp trách, để thiếp phân hắc bạch đôi lời, chốn nầy đây không chỗ không nơi, nhà thiếp đó xin mời chàng tới. Duyên kỳ ngộ một ngày cũng ngỡi, chẳng phải tuồng bướm lợi ong qua, chồng thiếp nay không có ở nhà, mặc tình đó vào ra thong thỏa.”
Nhơn nghe nói trong lòng mừng quá mừng cho cơn vàng đá tương tri, mới hỏi: “Chồng của nàng danh tánh là chi, nhơn sao lại có đi vắng mặt?”
Con Bảy Nhỏ kiếm lời tráo chác, đặt chuyện mà nói gạt Ái Nhơn, rằng: ‘Từ Âu Châu binh cách gặp cơn (1), chồng thiếp đã mắc chơn quân lính; thiếp ở nhà một mình magn bịnh, nhớ chồng nên cơn tỉnh cơn mê, hồi trưa nầy xuống bút thơ đề, tỏ tác dạ phu thê tương cách.
Bỗng thấy Thoàn bước lên thềm gạch, hỏi thăm người khít vách đi đâu? Thoàn là tay mưu trí thiệt sâu, mượn tiếng ngọt mà cầu thân thiếp. Quan rồi chàng mở câu hồng điệp, hở môi bày sứ điệp tin ong, bởi gặp cơn thiếp chạnh cô phòng, nghe lời dỗ cầm lòng không đậu.
Thiếp mô dám đổi xiêm thay áo, mà sanh tâm điên đảo cho đành, bởi nghe ông là đứng tài danh, e thẹn vuối mắt xanh bỏ quá. Phải cam chịu ven nhành vạch đóa, vẫn biết là gởi bạ nhành dâu, nghĩ khi thương chẳng lựa là cầu, lòng quân tử lẽ nào phụ rẫy.
Phận hèn nhờ phước xưa roi lại, nên đại nhơn tưởng đoái chút thân, chốn trầm luân cổi sạch nợ trần, ngậm vành đáp công ân chưa phỉ.”
Lời cuộn cuộn như đờn lưu thủy, nhón giày chờ tri kỷ ven tai, Nhơn thầm khen tài sắc bực nầy, tiếc thay bỗng lạc loài thân phận. Khôn đến mực phân trần êm thuận, giả cũng đành cho xứng gna2n vàng; còn đang suy xe vội ngừng đàng, vào cửa phố ở ngang rạp hát.
Nhơn vào rồi mắt nhìn sau trác, phòng khách đồ sắp đặt nghiêm trang, vách mới sơn nét phấn ràng ràng, dựa cửa để ghế bàn tinh sạch. Nhơn mới liếc coi hai bên vách, san thủy treo nhiều cách khéo thay, thêm bức tranh vẽ Bá Lạc Đài, chỗ Thương Chúa đêm ngày lắm lúc. Nhơn sực nhớ tích xưa sùi sụt, sóng khuynh thành một phút phá tan, rất đỗi là đế vưng còn bại quốc tán bang, huống một nắm gia cang chi kể.
Tuy nghĩ vậy trở ra chưa dễ, bị ba đào xui tệ lắm thế; nết hồng nhan không thuốc mà mê, nhà xuân muốn trở về không đặng.
Con Bảy Nhỏ mới dắt chàng đi thẳng, vào trong phòng tươi trắng tuyết pha, gối tai bèo rưới giọt dầu hoa, thơm nặc mũi bằng ba mùi xạ. Nệm bông mềm lót “đờ -ra” (drap) êm quá, mùng táng ong màu giá cũng thua, mền trắng tươi có tuội có tua, giường bằng sắt mới mua trăm mốt.
Lại thêm có bàn đèn sẵn đốt, ống-nồi tiêm-móc tốt hẳn hòi, đủ đồ nghề của bợ, làng soi; Nhơn chưa thạo hết mòi trăng gió.
Chàng mới hỏi lại con Bảy Nhỏ, sắm hồi nào đồ đó làm gì? Nghe lời chàng nàng mới nghĩ suy, quả một mặt ít đi chơi điếm!
Con Bảy Nhỏ kiếm điều dấu diếm, rằng: “Đồ nầy của chú thiếm tôi, để dùng khi canh vắng bồi hồi, đọc nhựt báo cho vui thửa chí. Chàng muốn hút tôi mua ít chĩ, nằm táo chơi mà nghĩ cuộc tình, hay là chàng muốn coi truyện chí bình sinh, nhậu một cốc ấp-sanh rồi sẽ.”
Mặt son phấn xui chi cũng dễ, Nhơn nghe theo như thể nước xuôi. Biết nặng chì nhẹ bứt để coi, coi con Tạo xây rồi mới rõ. Móc bạc đưa cho con Bảy Nhỏ, biểu sai mua món nọ món kia, ba mang rồi hút lịa hút lia, hút cho tới canh khuya cón hút!
Lúc vắng vẻ mặc tình sắc dục, đã đời rồi lắm lúc quên về, nào tưởng chi đến phận hiền thê, nằm thao thức mỏi mê chờ đợi. Cuộc điếm đàng giả tuồng nhơn ngỡi, vui trăng hoa rồi tới chuyện trò, theo một bên rờ rẫm mằn mò, làm như cách ngao cò gặp mặt.
Đời hằng ví trai thì tham sắc, dẫu cho rằng sấm sét cũng cam, bởi vậy cho nên Nhơn không rời một phút túi dâm, làm như thể đôi Sam bị sóng. Nhơn rờ tới bàn tay mầm lụn, cầm lên coi mấy móng ra dài, thấy ngọc xoàn chàng cứ nhìn hoài, rồi lại hỏi của ai cho bậu?
Lúc ban sơ nàng còn hơi dấu, giả như không đành lậu cơ gian, Nhơn thấy vầy thêm nỗi nghi nan, nên theo ép hỏi nàng cho đặng. Bảy Nhỏ nói: “Bởi kết nghĩa cùng chàng đã nặng, không lẽ tôi dấu thẳng cho đành, xin chàng tua bưng kín miệng bình, chớ lậu sự tình rõ ý.
Hột xoàn nầy thật là ngọc quí, của một người tri kỷ đem cho; nói rằng ngọc nầy là ngọc của Anh Cô, vì tình nặng trao cho làm tín.”
Nhơn nghe nói Anh Cô bất tỉnh: “Khoan! Nàng phân sao không chỉnh khó nghe, Anh Cô nào, có phải là Anh Cô ở Bến Tre, hay là gái Cầu Kê mới lại? Vì tình nặng trao tin người ngãi, ngãi nào đây có phải chồng nàng, nói ra thì phải rõ ràng, cho ta đặng tỏ tàng khúc độc?”
“Khéo thì thôi, chuyện kín nói cho nghe một chút, hỏi làm chi trong đục ngọn nguồn, hết cơn vui rồi tới cơn buồn, ai tránh khỏi những tuồng trăng gió. Anh Cô nào thiếp không biết rõ, song lóng nghe nàng đã có chồng, nhưng bởi nàng nhẹ tánh lạc lòng, tư tình với thầy thông thầy kiện.
Thầy ấy chẳng phải là người danh tiếng, song là tay doanh kiện quanh vành, cội phù dung bẻ biết mấy nhành, nên nổi tiếng lầu xanh từ ấy. Cả hai đều Sài Gòn cư tại, còn như thầy thông thầy kiện với tôi, dẫu không tình cũng ngãi trước mai, bởi vậy cho nên của tín nầy mới lọt vào tay, thầy phần số chẳng may sớm mất. Tới ngày nay ngọc nầy thiếp cất, để đời làm một vật báu tin, việc đầu đuôi thiếp đã cạn tình, lời đặng kín miệng bình khá nhớ.”
Nhơn nghe dứt có hơi mắc cỡ, song để lòng chẳng hở ngoài môi; “Nghĩ lầm tay ác phụ đã rồi, còn chi chẳng rẽ đôi dương nợ. Bấy lâu tưởng thật tình chồng vợ, nay ăn năn thành lở khó bồi, hột ngọc nầy là ngọc của tôi, mua cho vợ một đôi năm ngoái. Sao lại dám đưa cho người ngãi, có d0ành cho máu chảy ruột bầm, chớ phiền ta kết oán thù thâm, tại bởi bậu gian dâm bạc ngỡi. Trông mau sáng ta về hỏi lợi, quả tang rồi ta mới rẽ phân, nghĩ nực cười cho cuộc ái ân, khéo gây cái nợ nần lãng khách.”
Nhơn làm thinh trong lòng thầm trách, trăng hoa nào lấp mạch sầu tình, Bảy Nhỏ xem thấy ý bất bình, thì rõ kế của mình rất nhẹm.
Anh Cô ở nhà: Ngày tháng ôm lòng mang mển, nằm trông chồng thức đến canh khuya, tưởng đâu chồng vì bạn quên về, nào ngỡ cuộc trăng huê buộc trói. Nằm một mình trong phòng biếng nói, cứ ra vào ngóng vọi phu lang, ngó gối luông như cắt cang tràng, nhìn trướng nội dạ càng cay đắng. Đèn leo lét chọc sầu canh vắng, gió hiu hiu thêm quặn lòng trăng, gà ó o nhặt thúc bóng hồng, lằng chắt lưỡi vừng đông hầu lố.
Năm giờ sáng nhà thờ kiểng đổ, nghe tiếng chồng đứng gõ cửa kêu, Anh Cô mừng kể biết bao nhiêu, mừng chẳng khác Lam Kiều rước bạn. Vừa muốn hỏi đi đâu tới sáng, ngặt vì thấy bộ chồng bảng lãng sanh nghi, mặt dàu dàu dường có việc chi nên tỏ sắc ai bi bất tận.
Nhơn về nhà trong lòng căm giận, giận Anh Cô sớm mận tối đào, mới kêu nàng gạn hỏi trước sau, cho rõ thấu âm hao tơ tóc. “Chiếc cà rá kiểu tây nhận ngọc sao không hay xem sóc trao giồi, hay là nàng đã bán đi rồi, cũng nói lại cho tôi hẵn da.”
Anh Cô gặp lúc cùng chẳng đã, mới kiếm lời nói khỏa cho qua: “Đi sáng đêm chưa thỏa sao mà còn kiếm chuyện rầy rà nữa đó?”
Nhơn rằng: “Thấy vắng hình không rõ muốn cho nàng phân tỏ cùng ta, cất ở đâu nàng lấy đem ra đừng tưởng việc bỏ qua mà chớ!”
Gặp lúc táng nàng không thế đỡ, dẫu ăn năn cũng trót lỡ rồi, cứ làm thinh không chịu hở môi, lòng tha thiết bồi hồi nan giải. Ái Nhơn cứ ép nàng hỏi mãi, nàng thì không nói lại một lời, Nhơn rằng: “Hay là nàng ham cuộc chơi bời, đã cầm bán cho người rồi đấy? hay là nàng sanh tâm biến cải, làm của tin tình ngãi đã rồi?”
Anh Cô nghe ruột rối bời bời, ngần ngừ mới kiếm lời phân giải: “Từ buổi mới kết duyên kim cải, nghĩa vợ chồng quấy phải đã tầng, yêu ấp nhau phần đã vẹn phần, còn chi nữa ái ân nghi kỵ. Lại thêm thiếp cận ngày nở nhụy, son góa gì gieo lý thả đào, chàng mê sa con đ .. chó nào, về kiếm chyện ngăn rào đón ngõ? Nghi cho thiếp bề kia nỗi nọ, nghi cho đến điều trăng gió với trai, nói vậy, thiếp tư tình nên mới có thai, máu mủ ấy của ai không biết? Dầu phụ nghĩa cũ càng Hồ Việt, cũng niệm tình khí huyết thiếp mang, nỡ mẹ theo chó điếm mèo đàng, về kiếm chuyện vu oan cho thiếp.”
“Nàng dầu có kêu oan la hiếp, cà rá đâu nàng kíp đem ra, bởi xưa ta tin bụng đờn bà, nên mắc phải bợm già như vậy. Chẳng trao làm của tin người ngãi, ngọc ấy đâu nàng phải đem ra, chẳng chơi mà nói chuyện bỏ qua, rồi trở trách sao ta phụ bạc.”
Cô rằng: “Hột ngọc ấy bấy lâu thất lạc, thiếp kiếm tìm táo tác không ra, bởi sợ chàng chẳng tưởng rầy la, nên cam chịu tha nha thiết xĩ. Thiếp đâu dám sanh tâm hồ mị, đem của chồng ra ký tình nhân, dẫu một ngày cũng gọi là ân, huống chi đã nhâm thần kiết tử.
Sự may rủi biết đâu mà giữ, xing nghĩ tình tha thứ kẻo oan, một ngày kia đang lúc điểm trang, để cà rá nơi bàn rửa mặt. Bỏ quẹn đó người ăn cắp mất, nhớ lại tìm hết sức không ra, biết bao nhiêu tôi tớ trong nhà, dám nghi quyết ai mà tra hỏi.”
“Như có vậy thì nàng cũng nói, nếu quả nàng không thói tà tinh; lý đâu nàng đánh chữ làm thinh, nay hỏi tới sự tình than thức, Hữu nhan sắc hữu ác đức, lời bàn nhơn quả thật chẳng sai, tang tích còn hiện tại nơi tay, mà còn kiếm lời hay đổ tháo.
Nầy Anh Cô, xưa kia tưởng cùng nhau trọn đạo, nay mới tường phân áo rẽ bâu, dám hẹn người tới giữa vườn dâu, đem của báu mà trao làm tín. Mi tưởng chuyện trong mùng rằng kín, không có người tìm vít thổi lông, ta đã tường tận hết ngọn nguồn, còn chi nữa mà mong từ chối. Cùng ai mi chuyện trò sớm tối, cùng ai mi chung gối ngoại tình, hột ngọc xoàn trao để làm tin, còn chi cái chữ trinh mà kể.
Vì mạng vắn thầy thông thệ thế, kim cang thầy còn để cho ai, tàng tích đà tạng mắt tạng tai, chữ đồng có bẻ hai cũng đáng. Bụng muốn vậy dạ nào còn thán oán, bởi vì mi tham ván bán thuyền, phải nào ta lỗi hẹn lỡ duyên, cho má phấn đảo điên mà trách. Nàng dầu muốn làm ra minh bạch, ta sẵn lòng tâm mách cho coi, chớ ngỡ rằng chậu úp không soi, mà nói phận thiệt thòi cho lắm.”
‘Nộ bất cập xin chàng xét thẩm, thiếp lẽ nào sa đắm nguyệt huê, kể từ chàng cưới thiếp đem về lòng dặn một trọn bề giai ngẫu. Chàng tưởng đến ơn đà rất hậu, nghi thất vầy quí báu biết bao, còn chi mà bẻ lựu hái đào, còn chi nữa vườn dâu to nhỏ. Ơn tri ngộ ngậm vành kết cỏ, lang chạ vì rày đ1o mai đây, biển trầm luân muốn lấp cho vừa, lẽ nào đặng phòng nầy khuây nọ. Như chàng quyết một hai rằng có, xin làm ra cho rõ kẻo oan! Giống miệng lằng muốn phá gia cang, nghe vội rẽ tào khang tội nghiệp.”
“Nàng dầu có kêu oan la hiếp, chứng cớ đem ra cho hiệp mới là, muốn vậy thì sai kẻ sang qua, mời người tới tại gia thời rõ.
Thoàn, ngươi mau khá mời con Bảy Nhỏ đem hột xoàn của nó qua đây, đặng cho ta phân rõ sự nầy, kẻo nghi nỗi mưu ai bày biểu.”
Kế của Thoàn ác tâm định liệu, nghe Nhơn sai chàng đã hiểu xa bước ra đi không chút dần dà, lại toan chước độc mà xui quấy. Gặp Bảy Nhỏ, Thoàn liền nói lại, nỗi niềm giây oan trái Ái Nhơn; rằng kế mình thành đặng bảy phần, phải giữ chặt mữa đầng tiết lậu.
Nàng dầu muốn thành câu giai ngẫu, phải nghe theo lời bảo của ta, gia đạo Nhơn đang lúc bất hòa, mời Cô tới tại nhà đối nại. Vậy thì cô hãy đi mựa đừng nghi ngại, cứ theo lời ta dạy mà khai, duyên trước dầu rắm rối sẻ hai, nợ sau ắt bền dai quai cuống.”
Con Bảy Nhỏ theo Thoàn tuốt xuống, song tròng lòng những luống sợ thầm, sợ là sợ Anh Cô kết oán thù thâm, rẽ chồng vợ ngàn năm còn hận. lại xét, làm như vậy đất trời cũng giận, huống là người há chẳng ghi xương, tội lỗi dường bắc hải khó lường, ác độc ấy Thái Sơn chất để. Nghĩ tới nỗi không đành xui tệ, ngặt bởi Thoàn sợ kế bất thành, nên kiếm điều ngon ngọt dỗ dành ép con Bảy Nhỏ thi hành mưu độc.
Vào tới thấy Anh Cô còn khóc, khóc và than tơ tóc cùng chồng, gan dạ nào mà chẳng đau lòng, dầu sắt đá cũng không đành vậy.
Thấy Bảy Nhỏ Anh Cô đứng dậy, bước ra chào cô Bảy sang qua, gượng chào mừng mà hột lụy chan hòa, tức ấm ách như là té nặng. Thấy cà rá càng thêm cay đắng. muốn mở hơi mà nói chẳng ra lời, cắn răng ngồi thầm một trách trời, ghen chi hỡi hại người đến đỗi!
Ái Nhơn mới kêu nàng mà nói: “Cà rá kia nàng hỏi lại coi, chớ tưởng rằng chậu úp không soi, mà toan dấu kín mùi hoa nguyệt. Hỏi cô Bảy cổ nói cho mà biết, kẻo rằng ta sanh việc bất hoàn.”
Anh Cô xin cô Bảy phân qua, cà rá ấy bởi đâu mà có đó?
Bây giờ mới tới con Bảy Nhỏ, giả không dè phân rõ ngọn nghành: “Chuyện nầy đây là chuyện thình lình, vì chẳng rõ sự tình nói lỡ. Cũng vì cô với tôi chưa hề gặp gỡ, chẳng biết tên nên ngỡ là ai, tôi nhẫn dầu lời thiệt khai ngay, có mựa trách thái lai đôi mách.
Buổi trước tôi trộm tình Kim Thạch với một thầy ở cách xa xa, bởi vì tôi nghi thất nghi gia, nên khó nỗi hiệp hòa cho tiện. Tuy vậy mà có lời thệ nguyện, nguyện ngày sau lập kiểng trồng huê, hễ chồng tôi bước cẳng ra về, thì tính việc phu thê cùng thẩy. Bởi nguyền như vậy cho nên mới vậy, chẳng bao giờ ở quấy với nhau, dẫu mà thầy có lấy con nào cũng nói thật trước sau tôi rõ.
Dịp đâu bỗng gặp nhau bữa nọ, trộm cang thường to nhỏ với nhau, hột xoàn nầy thầy cổi ra trao, tôi mới hỏi âm hao tự sự. Thầy mới nói: “Của người phụ nữ vì tình riêng ký giữ làm tin, gặp mình đây trao lại cho mình, mình đeo lấy giữ gìn dấu tích. Tôi với mình bấy lâu khắng khít, dẫu rằng chưa đồng tịch đồng sàng bởi nàng nguyền hai chữ tào khang, l2ng thệ chẳng phụ phàng chăn gối.”
Anh Cô cười mà lụy tuông như xối, ngồi khoanh tay nghe nói buồn tanh, hỏi: ‘Vậy chớ chẳng hay thầy hà tánh hà danh, làm chi ở Bến Thành nói thử?”
“Thưa cô, thẩy cũng bực viên quan công tử, chẳng phải người lạc xứ ly hương, tên của thầy là Lý Mạnh Thường, nhà mười một ở đường Sở Giếng. Thầy giúp việc với quan Thầy Kiện, cũng là người danh tiếng bấy lâu.”
Anh Cô nghe nàng nói lắc đầu, nực cười cái họa đâu khéo gởi. Ái Nhơn kêu Anh Cô hỏi lợi: “Vậy chớ phải là người tình ngỗi mình chăng?”
Anh Cô ngồi chẳng nói chẳng rằng, nỗi oan ức cắn răng chịu vậy. “Cô có biết tên người tình ấy, lẽ nào không nói lại cô hay, vậy xin cô mau khá tỏ bày, cho tôi rõ tai bay họa gởi.”
“Thưa cô, thầy có nói Anh Cô thiệt là tên người ngỡi … Khoan! ….”
Nhơn rằng: “Anh Cô mi có nghe chăng? Như không nghe biểu cô nầy nói lợi giùm cho? Cha chả! Dám cả gan trộm lịnh đừa đò, lại cấp của đem cho tình ngãi. Lời thánh để nghĩ âu chẳng sái, độc nhơn tâm là gái khó lường, bởi vì mi lỗi đạo cang thường, đừng trách lẩn tào khang sớm bức.”
Anh Cô ngồi lụy tuông không dứt, cứ làm thinh than tức trong lòng; Bảy Nhỏ liền từ giã ruổi dong. Thoàn mầng kế tính xong khấp khởi.
Bây giờ Nhơn tính bề nhơn ngỡi, quyết một lòng bứt sợi chỉ mành, chứng cớ và tang tích đành rành, còn chi kể thiên thành giai ngẫu. “Xưa cũng tưởng cùng nhau trọn đạo, nàng rõ câu kiết thảo hàm oan, nay mới tường lòng thú dạ lang, còn chi nữa mà toan chung gánh.
Hay cho bậu giữ tròn tiết hạnh hay cho nàng đức sánh Mạnh Quang, bổn phận nàng phải tính cho an, đừng nói việc mển mang kiết tử. Hễ người trí phải toan tự xử, khó mà trông ta thứ lỗi cho, rảnh rang rồi mặc thích đưa đò, sớm tối bậu lần dò sâu cạn.”
Anh Cô khóc cùng chồng than vãn, trách vì ai kết oán mưu toan; nghĩ xưa kia Tể phụ hàm oan, ba năm trọn không chan một giọt “Chàng ôi, chàng khá nghĩ chút tình thương xót, bướm ong đâu để lọt qua rào, xin xét niềm phu phụ chi giao, mà cảm phận má đào lâm nạn. Một ngày cũng là tình nghĩa nặng, huống cùng nhau bậu bạn trót năm, mình ôi, tuế hàng tri tòng bá chi tâm, đừng vội giận các lầm ngọc trắng.
Dầu chẳng xét quyết tình bứt thẳng, máu mủ nầy chàng chẳng nghĩ sao? Phận thiếp dầu no đói quản bao, thương trẻ dại u ơ bố cốc. Con có cha dường như cô độc, mới lọt lòng oan khúc nào hay, có phải là cha giàu sang con trẻ lạc loài, phận rủi ấy vì ai có biết!
Chàng dầu muốn dứt tình Hồ Việt, xin đừng quên khí huyết của chàng, phận liễu bồ đang lúc mển mang, mựa vội khiến tào khang cho lỡ. Dầu chẳng gọi là duyên là nợ, thiếp xin làm tôi tớ trong nhà, đợi đến kỳ nở nhụy khai hoa, rồi đuổi thiếp đi ra cũng dễ.”
Nói dứt tiếng nhào lăn khóc kể, “Trời đất ôi! Chửa nghén vầy mà chồng để khốn thay, phải chi mà thiếp chẳng có thai, liều xuống chốn diêm đài cho rạng!”
Nhơn thấy vậy lòng không đành đoạn; xót vì câu nghĩa nặng tình dài, nhưng mà nghĩ đến điều cấp của cho trai, cơn giận nổi bằng hai quyết bỏ. Thêm nhớ tới mặt mày con Bảy Nhỏ, lửa lòng càng thêm đỏ khó ngăn, cớ ấy nên chàng mới đành phân rẽ gối chăn, chẳng kể tiếng la oan than tức.
Tội nghiệp cho Anh Cô xét cạn hết nỗi niềm rất cực, nghĩ phận mình gan tấc càng đau, bây giờ dây biết tính lẽ nào, mang bụng chửa vào đâu đùm đậu. Trở về mẹ khó che nổi xấu, bằng chẳng thì nương náu với ai, trời đất ôi! Khốn khổ nầy trời đất có hay, oan khúc ấy cao dày có thấu. Chàng ôi chàng bao nỡ mê đồ đĩ lậu, nghe lời về phân áo rẽ bâu, thiếp mà đi ra đấy, phận chẳng may hồn xuống vực sầu, thương cho trẻ lọt lòng mẹ sữa đâu mà bú.
Thôi thôi, duyên dầu mãn nợ kia trả đủ, tình dầu rồi nghĩa cũ cũng rồi, cúi lạy chồng ân ngãi đáp bồi; thân hèn dẫu nổi trôi bao quãn. Mặt giã từ lụy tuông linh láng, mắt nhìn chồng đòi đoạn sục sùi, thương thay, đưa chơn ra một bước hóa mười lui, trơ mắt nhìn ra sáu giọt.
Ra khỏi cửa tấm lòng chua xót, nghĩ cái thân bèo bọt mà phiền muốn đem mình gởi chốn cửa tuyền, cho rảnh nợ tiền khiên túc trái, nhưng mà xét phần khiến vậy liều mình cũng phải, ngặt một điều hại thân mình mạng lại thành hai, thương trẻ thơ chứa thấy mặt mày mà phải chịu oan nầy với mẹ.
Đang suy nghĩ tính chưa ra lẽ, đi thẩn thơ theo mé thủy triều gặp thị Hoa, Hoa mới cả kêu, “Hiền muội, hiền muội, đi đâu mặt buồn hiu như thế?”
Thấy mặt Hoa, Cô liền khóc kể, kể sự tình chồng để phải ra cũng vì chồng sa đắm nguyệt hoa, mê nhứt kiếp đạo nhà chẳng tưởng. “Anh hùng mà bị con sóng lượng, quán đình xiêu nghĩa trượng cũng xiêu, máu mủ đành nhắm mắt bỏ liều, vui với sắc thiên kiều bá mị. Lại nghe những mưu thần chuớc quỉ, vu cho rằng chẳng nghĩ tình sâu, dám đem người tới giữa vườn dâu, trao của báu mà cầu ân ái.
Nỗi oan ức khôn bề đối nại, phận rủi đành vâng dạy bước ra, một trách trời ghen ghét chi mà, làm đến đỗi kim xa chỉ thắm. Như phận em thân bèo bọt dẫu trôi ngàn dặm, sóng vập dồi em ngậm cười duyên, hay là số chẳng may dõi bước huỳnh tuyền em cam phận chẳng phiền tơ đỏ. Ngặt một nỗi khí huyết chàng em còn mang đó, nỡ lòng nào bức bỏ cho đang, nên cắn răng chịu chẳng phàn nàn, đợi mãn nguyệt cho an phận trẻ.
Lâm bồn rồi còn tường mặt mẹ, mẹ thấy con rồi sẽ chia tay. Tính vậy mà hãy còn à, e khi em xuống chốn diêm đài, thương trẻ dại không ai cho bú! Chị ôi, như phận em bấy chừ mang bụng chửa không nơi đình trú, khó trở về chốn cũ ở an, may mà gặp chị đây đang lúc giữa đàng, phân cho chị tỏ tàng chung thỉ, chị dầu có tưởng tình em chị, giúp giùm em nơi thê chỉ kẻo mà đặng nhờ khi nở nhụy khai hoa, cùng nuôi trẻ cho qua ngày tháng. Miễn em đặng tiện bề sang sản, dẫu nam tồn tánh mạng chẳng than, ơn đức nầy nặng tợ thái san, dầu thịt nát xương tàn còn tạc!”
Hoa nghe mấy lời Cô ký thác, đau tấc lòng liền phát xung tâm: “Cha chả! Chẳng tưởng niềm phu phụ chi ân, lại chẳng kể tình thâm chi đạo. Nuôi thằng Thoàn như ong tay áo, chị nhiều khi khuyên bảo chẳng nghe, theo nó mà lắm lúc nguyệt huê, không đoái nghĩa phu thê là trọng. Ngu đến đỗi bò mồi tham bóng, để thuyền cây bọ sóng lấp đi, dại gì lầm kế độc Quới Phi, làm đến đỗi suy vi cơ nghiệp.
Thôi thôi, về nhà chị nghỉ an giấc điệp, đễ chị mau xá kíp ruổi dong, tới hỏi chàng nguồn ngọn ngách sông, cho thấu nỗi đục trong tơ tóc. Em yểm lụy khốn gì khóc lóc, về chị mà xem sóc trước sau, tao nói thiệt, Ái Nhơn mà dám cải quá tao, tao nhứt nguyện liều một giọt mưa đào với nó.”
Thị Hoa mới bước vào cửa ngõ, Nhơn ở trong mầng rỡ bước ra, rước thị Hoa đi thẳng vào nhà, kêu trẻ ở pha trà giải khát. Hoa mới hỏi: “Vậy chớ con Ba đâu vắng mặt không thấy nàng ra mắt hỏi han?”
Nhơn rằng: “Hỏi chi đồ dạ thú lòng lang, chẳng niệm chữ tào khang nhơn ngãi. No cơm rồi sanh tâm biến cải, ấm áo đành phụ cái tình sâu, dám hẹn người tới giữa vườn dâu, trao của báu mà cầu dâm dục. Em hết sức niệm tình cốt nhục, bởi nàng không nghĩ chút tào khang nên em đành rời rã hai phang, cho khỏi tiếng thế gian đồn tiếu.”
Hoa hỏi: ‘Chuyện như vậy mà sao em hiểu, hay có người chỉ biểu cho chăng? Chị xét như Anh Cô lý đâu còn đem dạ liếu lăng, dám đưa tới ngọc xoàn làm tin. Chị biết nó có lòng trung chánh, cứ trao dồi tiết hạnh thờ chồng, không biết điều mua bưởi bán bồng, chẳng ưa cuộc bướm bông trăng gió. Em nói nó tư tình với thầy nào đó, cà rá về Bảy Nhỏ nào đâu, tích bởi sao mà rõ thấu đuôi đầu, em khá tỏ ngọn rau cuống nắm.”
“Thưa chị, từ buổi mới vầy duyên chỉ thắm, không mảy gì rối rắm tóc tơ, em tưởng là một dạ kính thờ, không có chi ước mơ hoa nguyệt. Thấy có thai em mừng chẳng xiết, tưởng là tình khí huyết hòa nên, dè đâu nàng chẳng giữ lấy nền, dám sanh chuyện trai trên gái dưới (sic).
Một bữa nọ lòng buồn dã dượi, biết cùng ai nói với cho vui, em mới ngồi nghĩ tới xét lui, rồi biểu thắng xe mui hóng mát. May đâu bỗng gặp người nhan sắc, lạ hoắc mà thấy mặt cũng thương, có dè đâu chỉ vấn tơ vương, nợ oan trái giữa đường gây mối. Về trướng nội nhớ nàng quá đỗi, muốn sao cho tương hội phỉ nguyền, bởi vậy nên tọa ngọa chẳng yên, trông mau sáng kiếm tìm giai nữ.
Nhờ Thoàn giúp mới là thành sự, em tới nhà hiền nữ giao dươn, thấy hột xoàn gạn hỏi nguồn cơn, nàng tỏ thiệt sự dươn từ ấy. Rằng nàng có trộm tình riêng ngãi với một thầy đã mấy năm dư, quyết một lòng vàng đá khư khư, chờ một thuở hiệp tóc tơ một mối.
Vì thiên số có hay đâu nỗi chưa tác thành thầy vội phân tay; buổi thầy chưa xuống chốn diêm đài thầy trộm bóng kề vai một gái. Nàng ấy cũng quyết lòng vầy ngãi, nguyện lập thành kim cải chi tình, mới cổi xoàn trao để làm tin, chẳng dè cuộc trớ trinh đâu lạ.
Chẳng phải việc trai son gái góa, người tình nhân cũng đã có chồng, bởi tại người quen nết bướm ong nên đem của mà dụ lòng trăng gió. Em hỏi có biết tên nàng đó, nàng đáp rằng biết rõ chẳng sai, tên Anh Cô mà chưa biết vợ ai, hột xoàn lại về tay Bảy Nhỏ.
Em về hỏi Anh Cô cho rõ, nàng chối rằng chẳng có tư tình, nếu mà nàng giữ trọng tiết trinh, sao lại có của tin như vậy.
Nàng lại nói bỏ quên ai lấy, chị nghĩ coi nó phải chỗ nào, dường ấy chưa nên dễ nó sao, tình phu phụ chi giao phải dứt. Còn chi nữa mà la oan than ức, bởi tại nàng muốn bứt ngỡi nhân, thà lứa đôi kẻ Tấn người tần, cho rồi cuộc ái ân ở bạc.”
Nhơn nói dứt Hoa cười sặc sặc: “Em thiệt còn dại đặc em ôi, em lóng nghe chị kể khúc nôi, kẻo đến nữa rồi ngồi mà khóc. Vì em đã nghe lầm kế độc mới đến điều tơ tóc đoạn phân. Thoàn là người ăn cướp sát nhân, em lấy oán làm ân nuôi nó. Việc ngày trước thù chưa dứt bỏ, diện phục mà lòng nó oán vưu, giả náu nương mà dưỡng lòng cừu, nằm đợi lúc âm mưu rửa hận.
Con Ba nó thật tình hờ hẫn, tin trong nhà nên chẳng nghi oan, cà rá xoàn cổi để trên bàn, chắc là bị thằng Thoàn ăn cắp. Bởi dại sợ em rầy khuất lấp, nên phải điều e ấp tệ tình. Thàn ngừa cơn em cậy đem tin, trao kế độc thình lình phá hại. Thầy thông nào vầy ngãi, em chớ tin con Bảy mà lầm, để chị làm cho nó phải lâm cho rõ chữ cơ thảm họa diệt.
Em dầu quyết bức tình Hồ Việt, chĩ cũng ráng chị nuôi, nuôi cho Anh Cô mãn nguyệt khai hoa, thằng Thoàn nầy phải đuổi khỏi nhà để mặc chị tới nha đầu cáo.”
Nhơn rằng: “Nghe chi tiếng Anh Cô nói xảo, đặng che lòng điên đảo tóc tơ, thằng Thoàn đâu có rõ tri cơ mà nòi nó oán vưu sanh chuyện. Chị cũng biết Nhơn chi tương tử kỳ ngôn giả thiện, điểu chi tương tử kỳ minh giả ai. Việc lỡ rồi than vắn thở dài, mượn giọt lụy mà rửa tay chàm nhúng. Em đâu muốn phân loan rẽ phụng, bởi tại nàng đem bụng tà tây, xin chị đừng biết tới chuyện nầy, để mặc nó ấp cây chờ thỏ.”
Hoa nổi giận hét la rầy ó: “Mặc tình em tham đó bỏ đăng, chị sợ cho em lỗi đạo bằng, sau dầu có ăn năn cũng muộn. Việc thưa kiện tự tình chị muốn, em cản chi cho uổng tấc công, chị thệ nguyền phân rõ đục trong, kẻo mà ức tấc lòng hiền muội.” Thị Hoa về.
Về tới thấy Anh Cô thầm tủi, tủi vì thương phận rủi biết bao; thấy thị Hoa mắt héo dàu dàu Anh Cô luống tâm bào ruột thắt. Hoa với Cô chị em gặp mặt, xét nỗi niềm nước mắt nhỏ sa, đau đớn thay cái phận đờn bà, nẻo tan hiệp như ngựa qua cửa sổ.
Đờn ông thường bỏ đăng tham đó, nào nghĩ khi cam khổ có nhau, không kể niềm phu phụ chi giao, nào biết cuộc vàng thau chọn lựa. Nào thương phận vợ mang bụng chửa, nào xét câu bến cũ đò xưa, say vuối tình trưa sớm đỏng đưa, khiến nên mối tơ thừa rời rã. Hoa rằng: “Phải trước biết để cho quân vất mả, thừa cơ mà hưởng cả gia tài. Nó nên nhà nhờ bởi sức ai mà dám phụ ý nầy như vậy.
Muội nương ôi, muội nương khá nghe lời chị dạy, còn chia mà tưởng ngãi vợ chồng, chị đem em ra giữa cửa công, nhờ phép nước xử xong oan trái.”
Cô rằng: “Thưa chị, chồng em dẫu vong niềm ân ái, em bao đành phụ ngãi cho đang, bia danh chồng tới giữa tụng đàng, nhục nhã ấu mấy ngàn để chuộc. Danh chông em mang điều nhơ nhuốc, phận em đây lại tốt chi chăng? Cho hay rằng chồng lỗi đạo bằng, nên phụ nghĩa đò xưa bên cũ.
Song em phải nghĩ tình máu mủ, em còn mang chưa đủ tháng ngày, ai lỗi nghì phụ bạc mặc ai, em phú có cao dày phân xử. Nẻo tan hiệp từ nhiên thiên sử, khiến cho chàng sanh sự đổi hai, em không hiềm cũng chẳng trách ai, một thầm tủi rủi may chút phận.
Em mong đợi cơn chồng bớt giận, thương vợ con lận đận lao đao, đem em về coi trước xem sau, đặng như vậy may cho phận biết bao mà kể. Em mô dám làm điều tác tệ tới giữa quan cậy thế ngoan ngôn, có phải là khó mà che miệng thế gian đồn, ngàn năm chửa lấp chôn tiếng xấu.”
Hoa rằng: “Em phân vậy sao toàn giai ngẫu, rủi may tua nươn nào theo bề lúc biến quyền miệng thế nào chê, nếu chẳng vậy phu thê rời rã. Bây giờ nó đương mê muội quá, khó mà tầm đàng cả cho ra, chi bằng em giằng trí nghe qua, đề huề tới quan nha khống cáo. Dường ấy mới biết ai vô đạo, bằng chẳng thì lộn lạo bạc chì, ngàn năm còn mang tiếng thị phi, nước biển rửa chẳng đi sĩ tiết.
Phân hắc bạch ra cho nó biết, rằng mưu gian cách biệt vợ chồng, như vậy thì tái hiệp còn trông, bằng chẳng ắt tây đông lưỡng lộ. Lửa cháy mày ai ngồi mà ngó, nước tới trôn an chỗ cho đang, trí giả thì mặc thiếp với chàng, ngu giả phải xin quan phân xử. Để mặc chị tầm người hay chữ, viết rõ ràng ý tứ trước sau, mai tới quan Biện lý đưa vào, phép công nghĩ lẽ nào thì biết.”
Lên xe kéo thị Hoa đi riết, may gặp thầy thông Niết giữa đàng, bảo ngừng xe nàng xuống chào mầng, tình tự mới rõ phân sau trước. Thầy mới nói: “Đang bán lộ biết làm sao được, xin thiếm tua dõi bước đi theo, về nhà tôi ở tại Thuận Kiều, định giá cả ít nhiều rồi sẽ.”
Hại thay, vì dốt việc mới tìm người chỉ vẽ, rủi gặp nhằm chú Lé hết trông; khoe rằng mười mấy năm tôi đứng thông ngôn, luật gì cũng nằm lòng hết thảy. Tôi hạ bút căn do phân giải, ắt hết phang chối cãi đặng rồi, sẵn luật đây tôi đọc đôi hồi, cho thiếm rõ khúc nôi đắc thất.
Thầy mới lấy truyện Tây Du, Tam Quốc để cả chồng làm luật đọc lia; con vợ ngồi xỉa thuốc ba-chia cũng lẽ sự nói kia nói nọ: “Tôi rầu quá ở không yên chỗ, dường như chim không ổ gởi thân, ít ngày nữa đây ở nhà tôi đổi nhưng mà chưa biết xa hay đổi đi gần, lòng tôi muốn mười phần ở lại. Cực vì nỗi lịnh quan khó cãi, dẫu bận lòng cũng phải biết sao.”
Thị Hoa nghe nói ngạt ngào, thấy cuốn luật của Tàu mà ngán. “Trời đất ôi, mình tối mắt cậy người sáng, dè đâu rủi gặp nhằm chú quáng manh rồi, biết sớm vầy chắt lưỡi hỡi ôi, phải chậm trễ đã lòi mắt cá!”.
Thằng nầy thiệt là tay xảo trá, mang “bắt chinh” vào giả thông ngôn, trước vẫn là bộc lệ chi môn, may gặp lúc cô hồn giúp mối; ăn huê hồng có tiền bỏ túi, sắm món giày làm lối khoe khoan, gạt dân quê ở tổng ở làng, tưởng nhà gã là hàng thông sự. Sức học biết đanh vần quốc ngữ, thiệt không ngơ một chữ Lang sa, dám xưng mình thông phán đứng tòa, tưởng dễ gạt đờn bà sao chớ?
Con vợ khoe bưng lừng bở lở, mở miệng không bợ ngợ cũng hay, việc chi mà đổi mốt đổi mai, bộ đổi xuống diêm đài thì phải!!! Vẫn biết đời hiếm kẻ dĩ tài vì nhơn ngãi, song nhỏ lớn gì cũng cái thân danh, việc mình làm mình chịu đã đành, dối chi vậy người thanh mang trược! Cắt cổ người không gìn chút nước, có cái nhà hưởng phước mẹ cha, làm chi điều thiết xỉ tha nha cho miệng thế dèm pha khi thị!!!
Thị Hoa tấn thối đà bất cị, việc lỡ rồi lấy trí liệu toan, nếu để cho chú quáng dắt đàng, ắt chẳng khỏi sẩy hang mà chớ. Thị Hoa mới kiếm lời nói đỡ: “Để tôi về rồi trở lộn ra, có em tôi phân tất gần xa, tôi chẳng rõ việc nhà cho hết.”
Ô hô! Nghĩ tội nghiệp cho con mẹ Niết, nghe như vầy mà chưa biết ý Hoa, nách con đưa quí khách khỏi nhà, dặn sao cũng trở ra lập tức, “Chuyện nầy, Thầy tôi giúp ắt là chẳng thất, nhiều việc còn trục tặc nữa kìa, thẩy làm còn không thể phân chia, việc như vậy mà lìa sao đặng.”
Hoa chiếp miệng cười hơi cay đắng, bước lên xe ngồi mắng lầm thầm: “Thấy như vầy mới biết loại vô tâm, truyện Tam Quốc mà đem làm Luật!”
Đi một đỗi gặp người tri thức, ngừng xe bày sự ức nỗi oan, người nghe qua hứa chịu dẫn đàng, cho Tề phu tới quan đầu cáo.
Về nhà rồi bút văn liền thảo, thảo rồi đưa đơn hảo cho Hoa, biểu cậy người biết chữ Lang sa, mua tính chỉ sao qua cho kỹ. Rồi đội trạng tới quan Biện lý, ngài cầm cân chả vị những ai, xem đơn nầy ngài rõ gian ngay, sao ngài cũng ra tay tế độ.
Hoa cảm tạ giã từ phản bộ, bước ra xe thượng lộ băng chừng; qua bữa sau vừa mới hửng tưng, chị em đã nối chưn tới cửa.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Quan Biện lý thâu đơn rồi hứa, phóng lịnh troàn bắt đứa mưu gian, sở tuần thành hượt tróc thằng Thoàn, cơ mật thám bắt nàng Bảy Nhỏ. Còng hai đứa giải vào để đó, cậu Ái Nhơn cũng có đòi vô, đủ thị Hoa lại với Anh Cô, ngọc xoàn để làm đồ tang vật.
Hỏi tên họ rồi dẫn vào ngục thất, giao cho quan Bồi thẩm vấn tra, Nhơn cùng Cô lại với thị Hoa quan dạy trở về nhà đợi trát.
Cơn tra hỏi Bảy sa nước mắt, một hai xoàn vốn thật của tin, Lý Mạnh Thường trước đã gá tình nên mới để của tin như vậy. Thoàn khai chẳng biết chi cả thảy, mang ơn Nhơn nên phải đền ơn. Cà rá nầy không hãn nguồn cơn, xin hỏi lại Ái Nhơn thì rõ.
__
Muốn rõ con Bảy Nhỏ với Thoàn than tức, Anh Cô mầng nỗi ức đặng minh, hãy xem qua cuốn thứ bảy thì rõ.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện