-
Quyển 2
Quyển 3
Quyển 4
Quyển 5
-
Chương 1 : Nơi tiểu xá Hai Long từ cựu ngỡi, Khỏi dưỡng đường Ái Nhơn khóc tình xưa.
-
Chương 2 : Đá trắng dựng mồ ghi nghĩa nặng, Cỏ xanh che nổng lấp tình dài
-
Chương 3 : Nghĩa Hữu ép thị Hoa vầy ngãi, Dép để đầu mão lại trong chơn
-
Chương 4 : Giữa tiệc rượu thị Hoa nhìn mặt chủ, Ngoài hiên chợ Ái Nhơn gặp cừu xưa
-
Chương 5 : Cha ngỗ nghịch sanh con ngỗ nghịch, Chủ tận tâm tớ cũng tận tâm
-
Chương 6 : Hoa ép Hữu ký tên giao của, Nhơn đuổi Thoàn khỏi cửa lầu trung
-
Chương 7 : Nhơn đuổi Thoàn đi ra khỏi cửa, Thoàn đội trạng cáo giữa quan nha
-
Chương 8 : Chốn công đường thị Hoa binh chủ, Giữa quan lộ Thoàn quyết sát nhơn
-
Chương 9 : Tầm người phải mà giao của cải, Nghe tiếng đồn có ngãi thầm thương
-
Chương 10 : Trai tài đã say tình gái sắc, Thuyền quyên còn e mặt anh hùng
-
Chương 11 : Hoa ngộ bướm hoa nguôi dạ nhớ, Bướm cách hoa bướm chạnh lòng thương
-
Chương 12 : Vì tình nặng Anh Cô dời gót ngọc, Ước nghĩa dày Ái Nhơn mở lời vàng
-
Chương 13 : Lời chưa cạn Ái Nhơn trao thơ cá, Kể sự tình Anh Cô gởi tình nhân
Quyển 6
-
Tuỳ chỉnh
Font chữ
Palatino
Times
Arial
Georgia
Nói về Ái Nghĩa khi về tới lầu thấy Hà Hương nằm, hình dung dã dượi, mặt ủ dàu dàu, hỏi Hà Hương duyên cớ làm sao, xin nàng khá âm hao bày tỏ.
Hà Hương khóc mà rằng: “Duyên phận thiếp, chàng ôi! Rất khó; chàng cũng đã biết, lựa phải phân cho rõ đuôi đầu, chàng mau dời thiếp tới chốn nào, nếu mà để thiếp đây, Nghĩa Hữu tới thiếp âu khó liệu. Lúc đầu hôm bóng trăng còn chiếu, ngó xuống lầu thấy nó vởn vơ, chẳng biết nó muốn làm chi mà đi chẳng đi, thơ thẩn đợi chờ, thiếp nghĩ việc tóc tơ mà tủi.
Lang quân ôi! Dầu có rủi thiếp cam phận rủi, hồn thiếp về chín suối đã an, thương nỗi chàng ở lại dương gian, bề cực khổ muôn ngàn nào biết. Lại thêm, từ buổi thỏ núp cây giỡn nguyệt, phước trời dành cho thiếp thọ thai;
Lang quân ôi! Tủi bề nào một mạng thành hai, ngày sau biết lấy ai nối nghiệp. Chàng dầu có thương con tưởng thiếp, khá liệu toan cho kịp ngày nay; làm sao cho Nghĩa Hữu đừng hay, dường ấy mới bền giai quai cuốn.”
Nghe vợ nói lòng đà phiền muộn, ngồi làm thinh dạ luống tư lương, cầm khăn lau nước mắt Hà Hương, nương theo gánh cang thường đàm đạo. ”Xin nàng hãy bớt cơn phiền não, ta thệ lòng trọn đạo gối chăn, ta chẵng mong học thói Sở Khanh, mà nàng sợ hư danh Kiều nữ. Dầu một bữa cũng lương dươn thiên tứ, huống nàng đà kiết tử nhâm thần, lời tục rằng: Vợ oan gia con ấy là nợ nần, có oan trái ái ân mới nặng. Nàng chẳng muốn ở đây cũng đặng, bên kia sông có sẵn phố lầu, dọn về ở căn dựa đầu cầu, ai vạch lá tìm sâu mà biết.
Nói cùng mà nghe, Nghĩa Hữu chẳng khứng tình từ biệt, quyết tìm nàng gây việc ác hung, ta nói thiệt, Nghĩa anh hùng Ái cũng anh hùng, Hữu hào kiệt Nghĩa há không hào kiệt. Lưỡi gươm báu của ta rất khuyết, há dung tình chẳng giết oan gia;
Thôi thôi, chị Hai nó ôi! Tấm trăng mành thỏ bạc đã lân la, khuya rồi, nói chi cho lắm, vợ chồng mình cứ “dĩ hòa vi quí”. Bức gấm liếu lăng cho phỉ, đặng rồi, xủ rèm ngơi nghỉ kẻo khuya, ví dầu trời đất phân chia, mình cứ giữ như khóa với chìa đừng để sét!”
Một chặp, mây tan trăng tỏ, mưa tạnh gió ngừng, vợ chồng mới sấp lưng, an giấc hòe tới sáng. Sáng ngày Ái Nghĩa lo dọn đồ đạc về ở phố dựa cầu Chà Và.
Còn Nghĩa Hữu khi trở về đến nhà, một là tức mình bạc phận, hai là thương nhớ Hà Hương, bởi vậy cho nên năm canh luốn ra vào, bồi hồi sầu mạt giải. Nằm trông cho mau sáng, đặng tìm cho gặp mặt Hà Hương, chẳng dè lóng canh gà vừa mới gáy tan, Nghĩa Hữu mệt ngủ mê man như chết.
Đến chừng giựt mình tỉnh giấc, nghe súng nổ rền tai, chắt lưỡi than rằng: “Nếu vậy giờ đã đúng mười hai, mãn mê mệt ngủ, không hay chi cả.” Nghĩa Hữu lật đật chổi dậy, đi rửa mặt; rồi sửa sang khăn áo ra đi tới quán cơm, vào ăn uống no say, mới nhảy tuốt lên xe, bảo chạy dông vô Chợ Lớn.
Chẳng dè lúc Nghĩa Hữu còn ngon giấc, Ái Nghĩa đã dọn nhà, bởi Nghĩa Hữu không hay, nên cứ nghểu nghến lại qua tới tối. Hết ngày nầy sang ngày nọ, trót mười ngày mà cũng chẳng thấy hình; Nghĩa Hữu nghĩ tức mình không thèm rình vậy nữa.
Ngày kia chàng sắm sửa, vào ăn một bữa nhà hàng, mới kêu trẻ dọn bàn, lại hỏi han tâm sự. “Chẳng hay nàng thục nữ, thấy đứng giữ cửa lầu, mấy bữa rày đi đâu, không thấy ra vào sau trác?”
Đáp rằng: “Người đã dọn đi phố khác lâu rồi bác mới hỏi thăm, nếu muốn kiếm tầm, xuống dãy phố bà Năm mà hỏi. Phố bà Năm là dãy phố lầu ở ngay cầu Chà Và đó bác.”
Nghĩa Hữu nghe nói liền cảm ơn, mừng thầm chiếp để trong bụng, đợi ăn uống rồi sẽ lần tới dọ tin. Dùng bữa vừa xong, Nghĩa Hữu trả tiền, bước ra lên xe, chỉ cầu Chà Và chạy tuốt. Gần tới nơi, Nghĩa Hữu biểu ngừng xe để đợi, còn mình thì đi dài theo phố kêu trẻ nhỏ hỏi thăm; trẻ nhỏ chỉ căn phố mới dọn hơn mười ngày rày. Nghĩa Hữu coi số nhà rồi trở lại xe, biểu chạy xuống ga xe lửa. Nghĩa Hữu lên xe trở về Sài Gòn.
Về tới nhà, mở cửa bước vào, lột khăn cổi áo đi nghỉ, ý chẳng vòn buồn rầu như trước nữa. Ngủ tới bốn giờ chiều, Nghĩa Hữu thức giấc, lật đật tới quán ăn cơm, ăn rồi trở về sửa soạn khăn áo, lên xe đi chợ. Rảo phố nầy qua phố kia, tiệm nào Nghĩa Hữu cũng liếc mắt xem giây phút rồi đi, không nghe hỏi mà cũng chẳng thấy mua chi hết.
Đi như vậy cho tới bảy giờ tối, Nghĩa Hữu giận lầm bầm một mình và mắng rằng: “Bán buôn gì mà cả chợ không thấy một con dao cho vừa ý!” Và nói và đi băng ngang chợ đặng qua đàng Kinh Lấp. Đi tới một căn phố bán tinh những đồ sắt, Nghĩa Hữu bước vào, chăm chỉ ngó lại chỗ để dao một hồi, rồi bước tới lấy một lưỡi,dài chừng năm tấc tây, sống dày, mép mỏng, bề khổ chừng năm phân tây, mũi nhọn, cán vắn, coi tương tợ như lưỡi gươm, cầm đưa ra mà hỏi giá. Chệc nói năm cắc, Nghĩa Hữu biểu lấy giấy bao lại rồi móc túi trả tiền, bước ra đi một nước.
Nói về Hà Hương, buổi chiều ấy Ái Nghĩa có mời anh em bạn tới chơi đông, bày tiệc ăn uống, đờn ca lý hát cho tới khuya; chừng từ giã nhau ra về, Ái Nghĩa theo đưa đôi dặm. Ái Nghĩa và khách kéo nhau ra hết. Hà Hương kêu trẻ dọn dẹp sạch sẽ, thoạt nghe có tiếng chạy thang lầu rầm rầm, Hà Hương hỏi ai mà chạy việc gì dữ vậy?
Vừa dứt tiếng, có người lên tới, Hà Hương chợt thấy, vùng la oản mặt biến sắc chàm, ngả lăn xuống ván. Con đầy tớ thấy vậy cũng không hiểu duyên cớ làm sao, lật đật bước tới dỡ Hà Hương, không thèm hỏi tới người lạ mặt.
Người ấy cũng bước lại kêu Hà Hương mà đỡ dậy và nói rằng: “Nàng mựa đừng kinh hãi, ngồi lên ta hỏi đôi lời, cuộc trăm năm còn hết tại trời, chẳng phải ở nơi người định.”
Hà Hương vừa mới tỉnh, mở mắt nhìn khắp hết trong nhà; Ủa nầy Nghĩa Hữu đây mà! Oan gia đâu khéo gặp!
Bây giờ mới biết người chạy lên thang lấu ấu là Nghĩa Hữu. Nguyên khi Nghĩa Hữu mua dao rồi, bước ra đi lại ga mua giấy lên xe đi Chợ Lớn. Vô tới trước nhà Hà Hương chừng lối tám giờ tối, thấy trên lầu đèn treo tỏ rạng, kẻ ăn người uống nhộn nhàng, tiệc rồi đờn địch ca xang, kẻ xuống người lên không dứt.
Nghĩa Hữu muốn lên hồi đó, song thấy người đông, sợ, chẳng phải là sợ Ái Nghĩa, nhưng mà sợ, e mạnh hổ nan địch quần hồ, bởi vậy nên tạm ngồi đợi khách về, mới tuốt lên lầu thượng.
Nghĩa Hữu nghe Hà Hương nói mấy lời bèn đáp rằng: “Xin nàng khá rộng lòng mựa chấp, đã cùng nhau e ấp bấy lâu, bậu chẳng nhớ khi, dìu dắt nhau núp dựa cột cầu, muông thảm ngàn sầu nan giải. Nào những thuở ôm nhau nằm dựa bãi, tấm lá xanh lót trải mà nằm, áo chẳng khô quần lại ướt dầm, mưa gió ầm ầm rất khổ.
May nhờ có thuyền chài cứu độ, khỏi nạn nghèo nàng bỏ gnhi4a ta; bậu tham tiền đi lấy Chà Và, hết Chà lại sang qua chú Xã. Bây giờ vợ chồng tới nơi xứ lạ, qua còn đây bậu cải giá sao đành, tham làm chi những của phù vân, mà yểm cựu nghinh tân tội nghiệp.”
Hà Hương nói: “Chàng mựa chớ vu oan cho thiếp, cũng vì chàng mà mạt kiếp cùng căn, chàng chẳng chuyên nghề nghiệp làm ăn, cứ theo cuộc điếm đàng cờ bạc. Chằng chẳng nghĩ, giỏ kia dầu nát, mình chẳng có bờ tre, thiếp gián can chàng chẳng thèm nghe, khác nào, lửa bừng cháy trăm xe mà không nước.
Thà thiếp lánh mình đi trước, há để chờ nước tới trôn, thiếp cũng như chim nọ sổ lồng, còn chi nữa mà mong trở lại. Bề nào cũng dứt rồi oan trái, đã cùng người kết ngãi châu trần, dầu với ai cũng cuộc nợ nần, với ai cũng ái ân nhân ngỡi”
Nghĩa Hữu cười mà rằng: “Giận nói vậy chớ lẽ nào không nghĩ lợi, ta chẳng như Ngô khởi sát thê, chị Hai nó ôi, khá lua sắm sửa trở về, hòa hiệp lo bề tấn thối.”
“Lời thiếp nói khác nào lời trối, chàng cứ theo thúc hối chi hoài, thiếp nói thiệt, thiếp nay chẳng phải vợ ai, mà cạ vế kề vai thiếp nữa.”
Mặt phừng phừng như lửa, gan sụt sụt dầu sôi, tưởng lấy lời năn nĩ ỷ ôi, hay đâu, tại nàng khiến dứt rồi oan trái. “Vậy thì nàng xây lưng coi lại, lưỡi gươm ta chẳng phải vô nghì, gái bội phu chẳng để làm gì, cho hồn xuống âm ti hết kiếp.”
Hà Hương thấy lưỡi gươm khủng khiếp, “Xin chàng dung cho thiếp phân trần.” Dè đâu lúc đang bày biển ái nguồn ân, nghe có tiếng hét rân dưới đất. Ấy là con tỉ tất, thấy rút gươm lật đật chạy la; thừa ưa Ái Nghĩa về nhà, mới hỏi qua tự sự.
“Cậu ôi! Người lạ mặt ở đâu rất dữ, cầm gươm đòi sát tử mợ hai, Cậu phải mau lên đó ra tay ráng sức giải khai tai họa.”
Nghe nói lại tâm trung hốt hỏa, thằng đâu mà ngang quá đỗi ngang, Ái Nghĩa vừa muốn chạy lên thang, thấy Nghĩa Hữu phăng phăng xuống đất. Ái Nghĩa nhảy tới ôm cứng ngắt, quyết dang oai ra bắt gian nhân, dè đâu Nghĩa Hữu, sẵn lòng đang kết hoán thù thâm, rút mũi bạc ra đâm Ái nghĩa. Con đòi xem mất vía, chạy ra phía cửa sau.
Bị mũi thương Ái Nghĩa té nhào, còn Nghĩa Hữu bôn đào nhị tẩu. Con đòi mới bước ra kêu Cậu, dè đâu, thấy Cậu nằm máu chảy tràn trề; “Thôi rồi, Cậu tôi đà về quê. Ma – tà ôi, đón bắt thằng tê chạy đó.”
Ma tà nghe la ó, xúm nhau đón ngõ chận đàng, chừng Nghĩa Hữu chạy ngang, mới là nan tẩu thoát …
Nói về Hà Hương ngồi trên lầu, nghe tiếng vật rầm rầm dưới thang, biết rằng lưỡng tình nhơn tranh đấu, nên ngồi lẳng lặng làm thinh, đến chừng nghe tiếng con đày tớ ó la, biết Nghĩa Hữu chạy rồi, mới là dám lần thang đi xuống. Xuống tới đất thấy Ái Nghĩa nằm trên vũng máu, dường như thể thác rồi, Hà Hương ôm khóc lóc một hồi, rồi nghĩ nỗi khúc nôi càng thảm.
Việc lỡ như vầy, nếu khai ra cũng khó, dấu mũi nghĩ chẳng đành, ngặt vì tình trước nghĩa sau, hai vai đều gánh nặng. Lại thêm kêu nài ra cạn lẽ, e chim se sẽ đẻ voi, chuyện ngày xưa ắt cũng phải lòi, mình khó nỗi ngồi coi cho đặng.
Nghĩ như vậy, bèn kêu con đày tớ mà dặn đến phải khai như vầy …. Dặn vừa rồi, xảy thấy lính và biện dẫn Nghĩa Hữu trở lại, còng Nghĩa Hữu để ngồi đó rồi xúm nhau lo đem Ái Nghĩa vô nhà thương. Ngừa lúc lộn xộn Hà Hương bước lại gần Nghĩa Hữu, nói nhỏ rằng: “Tới giữa quan đừng chịu, thiếp có kế giải nàn cho.”
Nghĩa Hữu gặt đầu; Hà Hương liền kêu tớ nhà, bảo đến báo tin cùng mẹ. Mẹ Ái Nghĩa hay lật đật chạy tới, ôm con mà giọt lụy tràn trầ, kêu con mà hỏi nguyên do, Ái Nghĩa nằm mê man không nói.
Lính dẫn Nghĩa Hữu về bót, đòi Hà Hương và con đày tớ đi theo, tới nơi ông Cò biểu giam Nghĩa Hữu vào phòng, rồi kêu Hà Hương vô hỏi. Hà Hương bẩm rằng: “Lối mười giờ tối lúc chồng tôi và khách ra đi, xảy nghe có tiếng chạy lên thang lầu rầm rầm, tôi chưa kịp hỏi, thì người ấy lên đã tới, tay cầm gươm đòi giết, miệng hỏi của dấu đâu, tôi sợ hoảng nhào lăn, nằm đà bất tỉnh. Cơn ấy có con đầy tớ đứng đó với tôi, xin hỏi qua thì biết.”
Ông Cò liền hỏi tuổi tác Hà Hương; Hà Hương dối khai: “Tôi tên Nguyễn Thị Cơ, hai mươi mốt tuổi,” Đoạn ông Cò biểu ra, rồi kêu đầy tớ vào mà hỏi.
Con đày tớ bẩm rằng: “Tôi tên là Trần Thị Hoa, mười bảy tuổi, mới vào phục sự cùng Cậu Mợ tôi chưa đầy một tháng. Đêm nay khi chủ khách vừa dứt chén, Cậu tôi đưa các vị bằng hữu lên đường, còn ở nhà có một mình Mợ tôi với tôi mà thôi.
Mợ tôi vừa kêu tôi dọn dẹp, xảy nghe thang lầu có tiếng người chạy rầm rầm, Mợ tôi hỏi ai chạy việc gì dữ vậy? Hỏi mà chẳng có tới, cũng chẳng nghe có tiếng trả lời; bỗng thấy một người cầm gươm xốc lên, đưa gươm vào cổ Mợ tôi mà hỏi của.
Mợ tôi té ngửa còn tôi thất vía hồn kinh, lật đật chạy xuống từng dưới la lên, kêu người tiếp cứu; Vừa may Cậu tôi đưa khách rồi trở lại, tôi đang bày tỏ kiết hung, Cậu tôi vừa muốn tuốt lên, bỗng thấy người ấy ở trên chạy xuống. Cậu tôi liền đón bắt, người ấy cũng xô đùq, hai đàng đương tranh hơn thua, tôi sợ hoảng kiếm đàng chạy trốn.”
“H. Vậy chớ mi có biết mặt người cầm gươm ấy chăng, bây giờ mi nhìn biết được chăng?”
‘Bẩm tôi không biết mặt, mà cũng khó nỗi nhìn, vì khi người ấy lên lầu, thấy gươm dữ tôi thất kinh bỏ chạy. Khi ở trên chạy xuống, vùng vẫy với Cậu tôi, bóng đèn leo lét không soi, nên tôi không nhìn đặng.”
“H. bây giờ cho mi thấy mặt người ấy mi biết chăng?”
“Bẩm không, đương cơn sảng sốt, tôi ngó chẳng thấy người, chẳng lẽ tôi dám nhận đùa, e oan người vô tội.”
Hỏi: “Người mà lính bắt dẫn về đó, có phải chăng?”
“Bẩm phải không thì chưa biết, mà nghe người ấy la hoan, việc đó nhờ có lượng quan, tra hỏi lại phải chăng thì rõ.”
Lấy cung khai rồi, quan bảo chủ nhà và đầy tớ về, sáng ngày sẽ tựu.
Hà Hương và thị Hoa ra về, quan liền đem Nghĩa Hữu ra hỏi, Nghĩa Hữu bẩm: “Tôi là tên Nghĩa Hữu, hai mươi lăm tuổi, gốc sanh đẻ tại Bến Tre, cha tôi tên Đậu Nghĩa Sơn, mẹ tôi là Trần thị.”
Quan nghe nói tên Nghĩa Hữu liền dở sổ ra coi, coi rồi gặt đầu mà làm thinh, mới hỏi duyên cớ làm sao mà đâm chém.
Nghĩa Hữu la oan rằng: “Tôi thật vô can vô cớ, không đâm ai cũng chẳng chém ai; nguyên đêm nay tôi đi qua cầu Chà Và, nghe la inh ỏi. Tôi lật đật chạy đi cho khỏi, sợ lây họa tới mình, chẳng dè chạy vừa đặng đôi đàng, thấy lính chận ngang đón bắt. Thiệt rất oan rất ức, tôi chẳng rõ việc chi, xin quan lớn xét suy, kẻo mà oan kẻ dưới.”
Hỏi: “Mi là kẻ ác đâm Ái Nghĩa, mi còn chối nữa sao, thị Cô với thị Hoa, hai người ấy thấy mi quả quyết.”
“Bẩm quan lớn, dầu có đem tôi mà giết, cũng là chẳng phải tôi, sợ e người giống người, trời tối nhìn lầm mà nói vậy.”
Quan liền kêu lính mà hỏi khi bắt Nghĩa Hữu trong mình nó có vật chi chăng? Và xét lại quần áo nó có dính máu hay không thì rõ.
Lính bẩm: “khi bắt nó, tay nó không cầm chi hết, trong mình cũng chẳng có vật chi, xét lại đây thì quần áo cũng sạch trơi, không máu.”
Nghe qua quan liền dạy giam Nghĩa Hữu và canh giữ nghiêm ngặt chờ sáng ngày sẽ biết.
Sáng ngày thị Cô, thị Hoa tựu tới, quan dạy đem Nghĩa Hữu ra, rồi kéo nhau vào nhà thương đối diện. Chẳng dè, vào tới nơi, quan thầy thuốc nói Ái Nghĩa lầm thương trọng, bị một mũi tại yết hầu, bây giờ đang nằm mê man, khó hỏi han cho đặng. Quan xin đem Nghĩa Hữu vào thăm Ái Nghĩa, quan thầy thuốc chịu cho, song chẳng nên hỏi Ái Nghĩa một điều chi hết.
Vào phòng thấy Ái Nghĩa nằm thiêm thiếp, nhắm mắt rên hoài, quan dẫn Nghĩa Hữu tới trước mặt Ái nghĩa chỉ mà hỏi rằng: “Mi có biết người nầy chăng?”
Miệng thì hỏi còn mắt thì ngó lườm lườm Nghĩa Hữu. Nghĩa Hữu ngó chăm chỉ, mặt chẳng biến sắc và bẩm rằng: “Người nầy là ai, thật xua nay tôi chưa từng biết.”
Quan thấy Nghĩa Hữu mà mặt không biến sắc, liền dạy dẫn trở về, đợi cho Ái Nghĩa tỉnh rồi, sẽ vào mà hỏi.
Đoạn thị Cô là Hà Hương, xin quan thầy thuốc cho phép, mỗi ngày ra vô thăm chồng. Quan thầy thuốc cho. Việc rồi kéo nhau ra về hết.
Muốn biết tánh mạng Nghĩa Hữu thể nào hãy xem quyển thứ tư thì rõ.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Nói về Ái Nghĩa nằm mấy ngày mê mết dường như không hay biết việc chi, bữa nọ thấm thuốc tỉnh hồn, mở mắt thấy Hà Hương ngồi dựa, Ái Nghĩa mới hỏi thăm duyên cớ, vì làm sao mà tới chốn nầy. Hà Hương mới đem hết đầu đuôi thau65t lại cùng Ái nghĩa.
Hà Hương lại tiếp rằng: “Thiếp thường hay than thở, tại chàng chẳng biết giữ mình, nay ra cớ sự như vầy, chắc thiếp với chàng phân cách.”
Ái Nghĩa nghe nói phân cách, chẳng hiểu cớ gì, bèn mở mắt ngó Hà Hương và hỏi: “Ta bất quá năm mười ngày rồi cũng mạnh, việc chi mà đến đỗi cách phân, hay là nàng sợ ta trọng tích mà vong thân, nên nàng muốn buông tiếng thảm.”
Hà Hương rằng: “Chàng chẳng rõ, chớ thiếp với Nghĩa Hữu khi còn ở Bến Tre phạm tội, có lục tống chạy cùng, nếu mà ra cớ sự nầy, chắc là lòi việc trước thiếp ngồi an sao đặng.”
Ái Nghĩa hỏi: “Vậy phải làm sao bây giờ?”
Hà Hương nói: “Sợ chàng giận gay không khứng, chớ việc cũng chẳng khó gì, như chàng muốn cứu thiếp phen nầy, bỏ việc oán ngày nay thì được. Chừng quan có đem Nghĩa Hữu vào mà hỏi, chàng cứ nói như vầy … như vầy … quan tha Nghĩa Hữu thì xong.”
Hà Hương dặn Ái Nghĩa quan có hỏi, cứ việc khai như vầy như vầy, Nghĩa Hữu cô can ắt là nàng vô sự. Ái Nghĩa chịu.
Chiều lại quan dẫn Nghĩa Hữu vô nhà thương đối diện cùng Ái Nghĩa đặng có vấn tra minh bạch. Khi tới phòng, quan hỏi Ái Nghĩa có định tĩnh chưa. Ái Nghĩa nói tỉnh, quan mới hỏi duyên cớ làm sao mà bị đêm.
Ái Nghĩa bẩm: “Nguyên đêm ấy, tôi có bày tiệc đãi bằng hữu. Khi ăn uống xong, khách từ giã ra về, tôi theo đưa đôi dặm. Lúc trở về lối mười giờ, gần tới nhà, tôi nghe la mã tà chói lói, tôi nhìn tiếng biết con đầy tớ của tôi la. Tôi mới lật đật chạy riết về nhà, bước vào gặp nó đương la tiếp cứu. Hỏi duyên cớ làm sao mà la thì nó nói rằng có một người lạ mặt cầm dao lên lầu đòi giết vợ tôi biểu một hai chỉ của.
Tôi nghĩ nói oản kinh vừa muốn chạy lên lầu, xảy thấy người ấy chạy xuống. Tôi quyết ra tay đón bắt, chẳng dè người ấy rút dao đâm tôi té nhào xuống đất.”
“Vậy chớ mi có nhìn biết người ấy là ai chăng?”
“Bẩm khi ấy đèn thang lầu leo lét, tuy vậy mà tôi cũng thấy chán chường người ấy vốn chẳng quen, tôi chưa từng gặp mặt.”
“Ước như có người ấy đây mi nhìn đặng chăng.”
“Bẩm đặng chớ sao không, tôi đã nói thấy mặt chán chường chẳng phải coi tháp thố.”
Quan dạy lính dẫn Nghĩa Hữu vào cho Ái Nghĩa nhìn; Ái Nghĩa ngó chăm chỉ một hồi nhìn quả là người đâm mình, vừa muốn nói phải, sực nhớ lời Hà Hương dặn lúc ban trưa, bèn vục nói: “Không phải người nầy là người đâm tôi khi đó.”
Quan bảo Ái Nghĩa nhìn đi nhìn lại đôi ba phen, Ái Nghĩa cũng cứ việc nói không phải hoài mà lại rưng rưng nước mắt. Thấy vậy quan lấy làm lạ mới hỏi: “Không phải thì thôi, cớ chi mi lại khóc?”
Ái Nghĩa nghĩ tức gặp cừu nhơn mà thù không trả, cũng vì vị bụng Hà Hương, tuy miệng thì nói không, mà lòng thì chua xót, nên khóc. Đến chừng nghe quan hỏi bèn trớ nói rằng: “Tôi tức vì tôi vì bị đâm ra thân thể như vầy, mà cừu nhơn không ai bắt đặng, nên tôi khóc chớ có gì.”
“Vậy chớ người đâm mi đó ra làm sao hình tích bao cao, gương mặt thể nào, mập ốm dường bao, bận áo quần gì nói cho minh bạch, đặng quan troàn bắt mà làm tội nó cho, khó chi mà mi phải khóc than vô ích.”
‘Bẩm, người đâm tôi khi đó Annam không phải, bộ giống Chệc lai căn trên thì bận áo rằng, dưới bận quần “kiến quít”. Bộ coi phục phịch, mặt hịt, lưng to, bụng thì bụng bồ, cẳng thì cẳng qũynh.”
Ông Cò nghe khai lắc đầu song cũng phải lấy khẩu chiêu rổi biểu Ái Nghĩa ký tên, đạon đem nhau về bót. Hà Hương mừng, ngỡ là cứu Nghĩa Hữu đặng nên trong lòng hớn hở vui vười. Chẳng dè dẫn về tới bót, ông Cò kêu Nghĩa Hữu mà hỏi rằng: “Khi mi còn ở Bến Tre mi với Hà Hương phạm tội trõng đem nhau mà đi trốn, có lục tống quan Bồi thẩm Bến Tre, troàn bắt, nay mi ra mặt đây còn Hà Hương mi dấu đâu, mau khá chỉ đặng ta bắt mà giải về Bến Tre luôn thể?”
Thị Cô nghe hỏi mặt đã biến sắc chàm, vội vàng bước vào xin về, bởi quan không rõ tri cơ nên không cầm nàng lại. Thị Cô từ giã ra về, nháy mắt lắc đầu, ra dấu biểu Nghĩa Hữu đừng khai thiệt.
Nghĩa Hữu ngụ ý bèn bẩm rằng: ‘Khi tôi còn ở Bến Tre có phạm tôi chi rằng trọng; vẫn biết Hà Hương kết nghĩa với tôi đã lâu, nhưng bởi nàng lòng độc dạ sâu, âm mưu hại vợ tôi là Nguyệt Ba, khi đổ bể ra quan bắt. Tôi rầu công việc nhà sanh biến, nên mới bỏ mà ly hương, nay xứ nọ mai xứ kia, công việc Hà Hương nào biết tới.”
Quan rằng: “Mi đừng dối phép, lục tống nói rõ ràng, rằng mi dẫn Hà Hương, tầm phương mà lánh nạn, mi còn chối nỗi gì.”
Nói rồi liền dạy giam Nghĩa Hữu vào khám đợi sáng ngày giải tới quan Biện lý. Ra tới tòa, quan Biện lý hỏi sơ một hai lời, rồi dạy lính đem Nghĩa Hữu xuống khám lớn; lập tức viết giấy thép gởi cho quan Bồi thẩm Bến tre hay rằng Nghĩa Hữu đà bắt đặng.
Nói về tòa Bến Tre, khi Hà Hương trốn rồi, tầm kiếm không ra, lại nghe rằng Nghĩa Hữu cũng đi mất nên định cho là Nghĩa hữu dẫn độ Hà Hương lánh nạn. Bởi vậy mới gởi lục tống khắp quận khắp châu cậy soát bắt Hà Hương cùng Nghĩa Hữu.
Đợi cho đến năm sáu tháng mà cũng chẳng nghe tin xứ nào bắt đặng, túng phải gởi nội vụ qua tòa Đại hình Mỹ Tho cho quan trên minh đoán.
Tới kỳ tòa đại hình Mỹ Tho mở cửa, đòi vụ Hà Hương vào trước hết; vợ chồng họ Đậu và Nguyệt Ba, vợ chồng Trần Quế, vợ chồng thị Liến và bà mụ Lưu, có Ó, có Đạo, đủ mặt, duy một mình Hà Hương đào, tầm không ra sở trú.
Khi tòa đại hình cật vấn đầu giây mối nhợ, lại phân minh rồi, xảy có trạng sư của Đạo, Hà Hương với mụ Lưu và vợ chồng thị Liến ra cãi, vu cho Nguyệt Ba với Ó phạm tội sát nhơn rồi kiếm thế chữa mình, xin tòa làm án tử tên Ó và nghiêm phạt Nguyệt Ba, chớ như chuyện âm kế đổi con, đồ mưu sát hại, điều ấy là điều vô bằng vô cớ, xin tha Hà Hương, vợ chồng thị Liến với mụ Lưu.
Kế quan trạng sư của Nguyệt Ba và ó ứng tiếng lên cãi rằng chuyện tráo con mụ Lưu và thị Liến đã chịu với quan Bồi thẩm Bến tre, chuyện âm mưu sát hại, Đạo là đầy tớ của Hà Hương cũng đã cung khai, sao lại gọi rằng vô bằng vô cớ.
Vả lại Hà Hương là một con bán hoa khắp xứ, ai lại chẳng hay, chuyện chi mà nó không dám làm, điều ác nào mà nó sợ. Ví như nó là một đứa bị hàm oan vu cáo, khốn gì nó bỏ mà lánh thân, chớ như Nguyệt Ba, tòa coi lấy mặt nó mà coi thật một con chơn chất thật thà, đáng mặt đờn bà đức hạnh. Bị âm mưu sát hại, còn sống bồng con tới cửa công đó là may, rủi bề nào là có phải một mạng thành hai; cũng là nhờ có Ó ham làm nghĩa chẳng trượng tài, cứu nàng đặng khỏi tai khỏi họa.
Chừng đem nhau về ngang suối Đá, tòa xét lời khai của thằng Đạo đó mà coi, nếu không Ó thì Nguyệt thị chả còn hồn, chẳng hờn riêng, không oán riêng, vì nghĩa mà Ó giết hai mạng du côn, tội chi lỗi chi, dẫu mà ó có giết mười mạng như vậy nữa, tòa cũng không buộc tội.
Vậy xin tòa, lấy phép công binh, minh đoán, chiếu theo luật hình mà nghiêm phạt Hà hương, Đạo đáng tội đày lưu, còn mụ Lưu phạm tội đổi con, vợ chồng thị Liến mắc án liên can đã đáng.”
Khi Trạng sư phân giải rồi, tòa kết án xử khiếm diện Hà Hương hai mươi năm tù, đợi chừng nào bắt đặng sẽ xử lại. Đạo mười năm cầm cố, mụ Lưu vì tuổi cao tác lớn tòa niệm tình kêu án treo hai năm. Vợ chồng thị Liến một năm, còn Ó thì tòa lấy tiếng vỗ về rồi tha về xứ.
Việc xong vợ chồng họ Đậu, vợ chồng Trần Quế với Nguyệt Ba rước Ó về, cầm ở đó đãi đằng rất hậu. Bởi Ó nhớ mẹ già, chẳng biết mạnh giỏi thể nào nên bươn về, cầm lâu không đặng. Vợ chồng họ Đậu và vợ chồng Trần Quế, đậu cùng nhau ba trăm đồng và hàng lụa, bưng ra một mâm, biểu Nguyệt Ba lạy Ó mà đền ơn. Ó từ chối năm ba phen không đặng, phải thọ lãnh rồi từ giã ra về. Khi sửa soạn ra đi, Nguyệt Ba kính tới thăm dưỡng mẫu, và gởi gắm thị tỳ chừng nào gặp dịp sẽ ra mà rước.
Tuy ân oán trả xong, mà Nguyệt Ba cũng còn sầu thảm hoài, giận vì Nghĩa Hữu bac tình, ghét Hà Hương ở ác. Vợ chồng họ Đậu thì mừng dâu mừng cháu, mà đêm ngày rầu trẻ xiêu lưu; còn vợ chồng Trần Quế thì mừng mất gái hư đặng gái nên, song thấy mặt cháu thêm phiền cho rể.
Nói về tòa Bến tre, ngày kia xảy đặng điển tín quan Biện lý Saigon gởi lại nói việc bắt đặng Nghĩa Hữu, quan Bồi thẩm lật đật trả lời xin giải Nghĩa Hữu về Bến Tre lập tức.
Bữa nọ vợ chồng họ Đậu đương ngồi rầu trẻ, xảy nghe bọn đầy tới đi chợ về nói rằng nghe thiên hạ đồn cậu hai bị bắt tại Saigon, tàu lại lính giải cậu hai về tới. Nghe nói vợ chồng họ Đậu chưng hửng, lấy mắt nhìn nhau, còn Nguyệt Ba rưng rưng hột lụy.
Vợ chồng họ Đậu hối Nguyệt ba lo sửa sang cơm nước xong xuôi rồi, kéo nhau ra ngừa tau coi có quả. Tàu lợi, ghé bến vừa yên, thấy lính dẫn Nghĩa Hữu lên hai tay còng tréo. Nghĩa Hữu dòm thấy cha mẹ, vợ con thì sửng sốt, còn vợ chồng họ Đậu thấy con ra thể ấy thì khóc òa, vợ họ Đậu kể rằng vì một con Hà Hương báo hại.
Nghĩa Hữu cất tiếng khóc và nói: “Xin mẹ chớ nhắc tới chuyện Hà Hương mà con mang họa.’
Dứt lời lính thúc hối Nghĩa Hữu đi, còn Nguyệt Ba thấy chồng như vậy lòng căm giận Hà Hương, ngó đến mặt chồng, nhìn lại con thêm tủi. Nghĩa Hữu đi rồi, kéo nhau trở về. Nguyệt Ba ra lạy cha mẹ chồng, khóc thưa rằng: “Tội bất hiếu chồng con đã đáng, nhưng mà xin lượng trên giải nãn kẻo thương, nếu mà để chồng con vào chốn khám đường, cả danh giá như sương trên cỏ. Vẫn biết chồng con đã chẳng thương để bỏ, sanh ra lòng tham đó bỏ đăng, còn chi mà tưởng nghĩa gối chăn, nhưng mà đoái trẻ dại lòng hằng tưởng nhớ.
Lời tục ví: Một ngày là duyên hai ngày là nợ, thấy lâm nguy ai nỡ bỏ nhau, xin cho con tới chốn đề lao, thăm hỏi âm hao cho hãn.”
Nghe dâu nói ruột tầm đòi đoạn, nhìn cháu thơ lai láng giòng châu, “Vậy thì con khá tua sắm sửa mau mau, ra hỏi nó vì sao mà bị bắt, rồi mẹ sẽ tuốt qua bên Mỹ, cầu Trạng sư luận lý giải nguy, rất đỗi là con còn xét tấm tình suy, huống là mẹ há đi bỏ lẫy.”
Nói về tên lính giải tội, khi tàu tới đã quá mười giờ, cửa tòa đóng chặt, vào không đặng mà nạp, bèn trở vào nhà hội làng, gởi Nghĩa Hữu cho trường xiên “bế nguyệt ư”, còn mình thì kiếm ăn no rồi lo nghỉ.
Nhờ vậy nên khi Nguyệt Ba ra tới mới gặp. Nghĩa Hữu thấy Nguyệt Ba vội vã chào mừng, ra tuồng mơn trớn, biểu Nguyệt Ba đem con lại coi; chẳng dè vừa mới vói tay bồng, thằng Thoàn hét la chẳng chịu.
Nghĩa Hữu gượng cười mà rằng: “Con chẳng biết cha, cha bồng không chịu!”
Nguyệt ba nghe nói liền đáp rằng: “Tại bởi cha bất hiếu, lai sanh ngỗ nghịch nhi, chàng nghĩ mà coi, đạo sanh thành chàng chẳng nghĩ vì, nghĩa vợ chồng không suy không tưởng.”
Hữu rằng: “Xin mẹ trẻ hải hà chi lượng, bởi vì ta ở chẳng kỹ cang, tội lỗi nầy chứa để muôn ngàn, dẫu thác xuống suối vàng chưa phỉ, ráng cùng ta cho toàn chung toàn thỉ, ta nhẫn dầu khỏi chốn ngục trung, nguyện đến thác ơn không dám phụ.
Về năn nỉ dùm với cha mạ, xin hãy bỏ qua chuyện cũ, ra tay cứu độ phen nầy, rồi đây ta khai bẩm như vầy, đến thầy kiện mà toan thế ấy.’
Đang nói chuyện, bỗng nghe tiếng tro61ngha26u, tên lính thức dậy dẫn Nghĩa Hữu vào quan mà nạp. Còn Nguyệt Ba bồng con trở về nhạc gia, bẩm hết đầu đuôi tự sự, đem những lời Nghĩa Hữu khóc than mà thuật lại cùng cha mẹ chồng; vợ họ Đậu nghe nói khóc òa, họ Đậu cứ điềm nhiên tọa thị.
Vợ họ Đậu nói: “Vậy thì để cho tôi qua Mỹ cầu trạng sư coi người nghĩ thế nào, chớ nài tiền bạc tốn hao miễn con khỏi lao đao lận đận.”
Họ Đậu nghe nổi giận quở la vợ một hồi cứu chi cái thằng bi pôi tội của nó để cho nó chịu. Mụ nghĩ mà coi, nó thiệt là thằng bất hiếu, làm con không cảm điệu sanh thành; bỏ vợ hiền mà theo gái lầu xanh, bề đôi lứa đã đành đen bạc. Nay đã hết cơn ưu lạc, phạm tội nên quan bắt giải về, còn chi tình mẫu tử nghĩa phu thê, mà sầu thảm ủ ê cho nhọc.”
Vợ họ Đậu nghe chồng nói như vậy khóc mà rằng: “Ông nói sao chẳng nghĩ, nước nóng còn có khi nguội, bát bể đánh con sao lành, ai cầm dao cắt ruột cho đành, ông lại biểu đừng nhìn tới nó. Vẫn biết tội bất hiếu tội đà tỏ rõ, dạ bạc tình tham đó bỏ đăng, lúc giận mụ dạy mụ răng, chờ hễ vắng mặt bóng màng thì trẻ khóc.
Ông coi không ra, chớ lòng ông thiệt độc, tình máu thịt chẳng chút nào thương, thôi ông đừng nói vô làm chi, để mặc mụ lo lường, cứu trẻ khỏi đường tai nạn.”
“Ừ! Mê như vậy mới thiệt là xứng đáng! Lão nói trước cho, mụ đừng đem phí lãng của nhà, phải nghĩ tất công già, làm cháy da mày nám. Thà đem cúng cho thầy làm đám, may Phật trời cứu giảm họa tai, thà đem ra bố thí cho ăn mày, hơn là để đi xài tầm bậy.”
“Ông nầy phân nghe rất quấy, ối, không cần, mụ khọng thèm bợn lấy của ông, điều nói mà nghe, chớ cực nhọc gì mà ông lại kể công, chớ như mụ làm xẻ mũi thở đà không muốn kịp. Hễ vợ chồng ý hiệp, của chàng công thiếp làm ăn, có đó mà chẳng có đăng, biết lấy ai ngăn mà có cả.”
“Mẹ vậy con vầy đà phải quá.”
“Sao, mẹ sao con sao mà phải quá, ông nầy nói nghe bậy bạ còn chi, nầy, mụ với ông từ thuở thanh mi, chi bạch phát còn gì ghen nữa. Hay là mụ lấy ai mà có chửa. nên sanh con phá cửa hại nhà, ông nói thì phải nói cho ra, bằng chẳng, mụ không tha cho đặng. Nghĩ thiệt là cay đắng, có nói ra nó cướp mắng trên đầu, dường ấy có nên rầu, xấu hổ con đâu biết mấy.”
Nguyệt Ba rằng: “Thưa cha, con khôn lớn, lẽ nào khờ dại, từ tùng phu đã trải mùi cay, cha nghĩ mà coi, bát trong sóng còn động thay, việc gia đạo ai ai cho khỏi. Lúc giận thì cha nói, lẽ nào không xả tội cho con, dầu rằng cho biển cạn non mòn, tình phụ tử cũng còn hoài ái.
Xin nhạc gia lượng lại, ra ơn cứu giải ngu phu, chồng con dầu khỏi chốn lao tù, ơn cha mẹ ngàn thu khắc cốt. hễ cha mẹ tốt thì con mới tốt, con dại dột tiếng lọt về cha, cha nhẫn dầu giận lẫy bỏ qua, có phải là thiên hạ dèm pha xấu hổ. Con chẳng nệ muôn ngàn nỗi khổ, cha nghĩ mà thương chút cháu thơ còn nhỏ biết chi, thuở lọt lòng cho tới biết đi, tri kỳ mẫu bất tri kỳ phụ.”
“Nói làm chi con, để nữa ổng gách bạc về âm phủ, bây giờ đây, để cho con chết rũ trong lao, lời tục ví: Chữ ‘thiên tường tát biệt’ sai nào, thôi để đó mặc tao liệu biện.”
“Mụ đừng nói thấp cao nhiều chuyện, ai của đâu đem liệng xuống sông, đổ mồ hôi lại chẳng tiếc công, xót con mắt há không tiếc của. Mụ có nói vậy, thôi thì bán hết nhà hết cửa, đem đi mướn trạng sư cứa chữa cho con, hết thì hết còn thì còn, không hơi nào mà nói.”
Dứt lời họ Đậu đứng dậy phủi đít rảo ra sau vườn, vợ họ Đậu kêu Nguyệt Ba, chỉ mà nói rằng: “Con coi đó, nghĩ thiệt đáng phiền biết mấy, ối, mà cũng tại thằng súc sanh nó ở quấy quá chừng, phải nó mà như con người ta sao mà ổng lại không cưng, bởi nó hại quá, nên ổng mới dửng dưng như thế.
Thôi, để mẹ đi kẻo trễ, con ở nhà, ráng mà coi tử tế trong ngoài, mẹ qua tính việc ít ngày, mẹ sẽ day trở lại.” Dặn rồi từ biệt chồng và dâu ra đi; xuống tàu qua Mỹ Tho tìm vào Trạng sư Portrait mà bàn luận.
Vào gặp mặt Trạng sư Bọt-tre, hai đàng mừng rỡ, vì khi trước Trạng sư Bọt-tre có cãi vụ Nguyệt Ba nên đã quen mặt, phân ngôi chủ khách ra rồi, vợ họ Đậu mới tỏ hết sự nhà, cầu Trạng sư cứa chữa. Giá cả xong xuôi, Trạng sư hứa chịu đợi ngày xử sẽ đến. Vợ họ Đậu xin Trạng sư phải qua đặng mà dự thính cung khai và lãnh Nghĩa Hữu ra ngoài, chờ ngày đòi xử.
Trạng sư bằng lòng, biểu vợ họ Đậu tạm đợi đến ngày mai, sẽ xuống tàu đi luôn thể. Vợ họ Đậu từ giã ra tiệm Quản lai cư ở đợi. Sáng ngày vào hiệp cùng Trạng sư xuống tàu trở lại.
Khi tàu tới Bến Tre, còn sớm, chưa tan buổi hầu chiều, Trạng sư đi thẳng vào tòa, ra mắt quan Bồi thẩm, hỏi thăm vụ Nghĩa Hữu. Quan Bồi thẩm nói hổm nay mắc việc chưa hỏi đến, Nghĩa Hữu hãy còn giam nơi khám, sáng mai mới là tra đặng.
Trạng sư xin ngày mai dụ thính cung khai Nghĩa Hữu. Quan Bồi thẩm cho. Trạng sư cảm ơn rồi từ giã đến tạm nơi nhà khách. Ra gặp vợ họ Đậu đợi nơi cửa tòa, trạng sư nói lại cho hay, vợ họ Đậu mừng, rồi phân tay hai ngả.
Sáng ngày lính dẫn Nghĩa Hữu tới tòa, một chặp thấy Trạng sư, Nguyệt Ba và vợ họ Đậu đi tới. Trạng sư vào phòng việc quan Bồi thẩm nghe có tiếng kêu Nghĩa Hữu, lính mở còng dẫn Nghĩa Hữu đến; quan Bồi thẩm hỏi lý lịch xong rồi liền dạy Nghĩa Hữu phải lấy lời ngay mà bẩm khai minh bạch.
Hỏi. “Mi có biết hà Hương là ai chăng?”
“Bẩm, biết Hà Hương là vợ chánh của tôi, cha mẹ tôi cưới cho tôi, sao tôi lại không biết.”
H. “Mi cùng Hà Hương ở với nhau đặng bao lâu mà xa nhau?”
“B. Ở với nhau đâu đặng một năm mà thôi.”
H. “Tình vợ chồng mi với Hà Hương mặn nồng thể nào, vì sao mà đến nỗi xa?”
“Tình nghĩa vợ chồng, Hà Hương ở cùng tôi như bát nước đầy, thương yêu nhau vô giá, bởi Hà Hương, chẳng giữ [hận làm dâu trên không thuận dưới chẳng hòa, cha mẹ tôi không bằng lòng, mới khiến điều để bỏ.”
“Vì cha mẹ mà mi bỏ Hà Hương, đi cưới Nguyệt Ba; cưới Nguyệt ba về rồi, mi còn thương tưởng vãng lai với Hà Hương chăng?”
“Bẩm, còn lai vãng như thường tình thương không nguôi dạ.”
‘Có khi nào trọn ngày đêm mi ở bên nhà Hà Hương chăng.”
“Có, có khi tôi ở luôn đó ba bốn ngày đêm với nó.”
‘Vậy thì mi rõ biết việc nhà Hà Hương lắm.”
“Phải, tôi rõ biết.”
“Mi biết Trạnh, Hồ, Đạo là ai chăng.”
“Trạnh, Hồ, Đạo là đầy tớ của Hà Hương.”
“Mi biết Hà Hương là con ai, Nguyệt ba là con ai chăng.”
“Hà Hương là con Trần Quế, Nguyệt Ba là cháu ngoại mụ Lưu chớ ai.”
“Mi nói sai, phải khai cho thật; có lý nào mi chẳng biết Hà Hương là cháu mụ Lưu, Nguyệt Ba là con Trần Quế sao, việc trớ trêu nầy mi rõ lắm chớ.”
“Trừ ra một mình mụ Lưu và thị Liến rõ biết, ngoài nữa chẳng ai hiểu thấu. Rất đỗi cha mẹ tôi và cha mạ vợ tôi còn không hiểu huống lựa là tôi.”
“Mi nói rằng mi rõ biết việc nhà Hà Hương, mi biết Trạnh, Hồ và Đạo là đầy tớ của Hà Hương, cớ sao mà khi chúng nó vưng lịnh Hà Hương giả làm bần nhơn đi xin ăn, vào nha mi mà đi bạn, mi lại không nói để vợ mi là Nguyệt Ba đi cúng chùa lầm mưu gian âm hại. Lấy đó mà suy thì mi a ý với Hà Hương mà hại vợ mi.”
“Có lẽ đâu tôi lại a ý với Hà Hương mà hại Nguyệt Ba, ấy là lời quan Bồi thẩm vu oan cho tôi đó. Khi Trạnh, Hồ, Đạo tới dối xưng như vậy, tôi có biết mặt nó là ai đâu. Còn khi tôi biết đặng Tranh, Hồ, Đạo là đày tớ Hà Hương nhờ tôi ở đêm ngày bên Hà Hương tôi mới biết.”
“Lời nói đó chẳng ngay, song ta cũng cho mi lợi khẩu; còn khi mi rõ đặng Trạnh, Hồ và Đạo ba thằng chèo ghe, hãm hại vợ mi đều là đày tớ của Hà Hương, sao mi không tố cáo cho quan bắt, mi lại làm thinh dễ vật, mi còn chưa chịu a ý với Hà Hương mà hại Nguyệt Ba sao?”
“Tôi nói sau tôi mới biết Trạnh, Hồ, Đạo là đày tớ của Hà Hương, chớ tôi có nói rằng sau tôi nhìn biết Trạnh, Hồ, Đạo là ba thằng chèo ghe đâu mà quan hỏi tôi sao không tố cáo. Tôi thật chẳng hề nghi bọn gian nhơn ấy là đày tớ của Hà Hương và tôi cũng chẳng có ý nhìn biết đặng chút dấu nào cả, vì khi đến xin ăn thì đầu đội nón trùm quần đầu gối, áo vạt khách tới mổng trôn, quả là người ghe bầu, còn khi tôi qua nhà Hà Hương, thấy Trạnh, Hồ và Đạo ăn mặc lòe loẹt, quần hàng áo lụa, khăn giầy rỡ ràng, biết đâu mà tố cáo.”
“Vì sao mà khi Nguyệt Ba nổi trôi nương tựa nơi nhà Ó, tại Hòn Bà. Sai Ó đem thơ vô cho mi hay, mi lại trao thơ ấy cho Hà Hương coi, mi nói rằng mi không a ý?”
“Điều ấy oan tôi lắm; tôi hằng ngày trông tin Nguyệt Ba mà chẳng nghe tin, có lẽ đâu hay tin lại giấu thật tôi chẳng hề gặp mặt Ó lần nào, chẳng hề đặng tin chi cả thảy.”
“Ó nói rằng khi nó giao thơ tại nhà Hà Hương là nơi mi ăn ở, sao lại không gặp mặt Ó là nghĩa gì?”
“Tôi không có ở đó thường, thoạt vãng thoạt lai mà thôi, có lẽ khi Ó đem thơ vào không có tôi nơi đó, Hà Hương tim tâm nhận lấy thơ mà dấu tôi chăng?”
Quan Bồi thẩm liển biểu lục án Hà Hương ra coi những lời Ó và Đạo khai, khi đem thơ, thật lúc đó Nghĩa Hữu không có ở bên Hà Hương nên Hà Hương nhận lấy thơ, rồi âm mưu sai thủ hạ ngừa đàng mà giết.
H. “Vậy chớ khi Hà Hương sai ba đứa đi ngừa Nguyệt Ba, mi không hay sao?”
“Thật tôi không hay, Hà Hương chẳng hề dĩ hơi cho tôi biết.”
‘Vậy chớ mi thấy vắng mặt ba đứa mi không hỏi đi đâu hay sao?”
“Tôi có hỏi, Hà Hương nói với tôi rằng đuổi chúng nó đi không cho ở nữa. Bởi lúc buồn rầu, lại thêm bất ý chẳng nghi, nên chẳng cần hỏi han nhiều chuyện.”
‘Khi chuyện dở lỡ ra rồi Nguyệt Ba về, Ó Đạo về đủ mặt, bắt Hà Hương giam vào khám, mi còn thương tiếc Hà Hương chút nào chăng.”
“Tuy nó dại ghen tương làm ra đại sự tôi cũng giận, song giận rồi nghĩ lại cũng thương, thương là thương vì một tôi mà nó sanh lòng độc hiểm.”
“Khi Hà Hương bị giam mi có đi thăm nom lần nào không?”
“Tôi hết lòng thương nhớ nhiều khi đi thăm mà không thế nào thăm nó đặng.”
“Ấy vậy lòng mi còn thương nó nhiều nên chuyện nó hại vợ mi như vậy mà mi hãy còn ước ao thấy mặt nó?”
“Phải, giận thì giận vậy chớ lòng tôi còn mến thương nó lắm.”
“Vì tình thương nhau không nỡ rời, mi đem nó trốn đi ở xứ nào từ ấy những nay.”
“Ấy là lời quan chẳng thương vu cáo cho tôi đó, tôi chẳng hề đem Hà Hương đi trốn.”
“Miệng thế đều quyết chắc mi còn chối nỗi gì, vậy chớ vì cớ nào mi bỏ xứ mà đi?”
“Vì việc gia đạo sanh biến, vợ con sanh sự bạo tàn nên tôi rầu bỏ mà đi cho khuất mắt.”
“Mi đi sao không cho cha mẹ mi hay, bỏ ra đi thình lình như vậy.”
“Nếu tôi cho cha mẹ tôi hay ắt cha mẹ tôi cản trở.”
“Mi ra đi ngày nào, đi cách nào?”
“Tôi đi nhằm buổi chiều hai muôi tám tháng hai, tôi đi tàu.”
“Mi đi lối mấy giờ, mi đi đâu?”
“Tôi đi hồi gần bốn giờ chiều, đi tàu qua Trà Vinh.”
“Người ta nói mi đi hồi bảy giờ tối, mà đi ghe không phải đi tàu, bộ lâu ngày mi quên đi chăng? Mi qua Trà Vinh làm nghề gì.”
“Tôi qua Trà Vinh ở không đâu đặng một tháng, tiền bạc hết rồi, tôi phải vào xin làm lục bộ mà chi độ hồ khẩu.”
“Mi ở Trà Vinh đặng bao lâu.”
“Tôi ở đó có dư năm tháng.”
“Mi vào làm lục lộ đặng mấy tháng rồi mi thôi?”
“Làm lục lộ hơn ba tháng.”
“Mi ở nơi nào mà đi làm lục lộ.”
“Tôi ở đậu trong nhà thầy Đội lục lộ.”
“Mi bỏ Trà Vinh mà đi ngày nào?”
“Tôi đi nhằm ngày mười sáu tháng bảy.”
“Mi đi đâu?”
“Tôi lên Saigon.”
“Mi làm nghề gì ở Saigon?”
“Tôi làm cu li nhà máy Bình Tây.”
“làm đặng bao lâu?”
“Đặng ba tháng.”
“Mi ở nhà ai mà đi làm.”
“Không ở nhà ai hết cu li chung nhau mướn phố ở.”
“Người ta nói rằng mi đi môt lượt với Hà Hương?”
“Tôi chẳng thấy mặt Hà Hương.”
“Vậy chớ khi về Saigon mi chẳng gặp nó hay sao? Mi gặp nó một lần, song nó có chồng giàu có, thấy mi đói khó nó chẳng thèm nhìn tới mi?”
“Tôi chẳng hề gặp mặt Hà Hương lần nào hết.”
“Mi liệu chắc Hà Hương bây giờ ở đâu.”
“Tôi đã nói khôn gặp mặt Hà Hương, không nghe tin Hà Hương làm sao mà liệu chắc Hà Hương ở đâu cho đặng.”
Quan Bồi thẩm ngừng lại không hỏi nữa, bảo Nghĩa Hữu ký tên lấy lời khai rồi dạy dẫn xuống khám. Trạng sư hỏi xin lãnh Nghĩa Hữu ra chờ ngày xử, vì cung khai đã hườn thành. Quan Bồi thẩm chịu, song phải xin quan Biệt lý.
Trạng sư qua phòng quan Biện lý mà xin lãnh, quan Biện lý hỏi lại quan Bồi thẩm, rồi dạy phải đăng bạc thế chưng một trăm rưỡi đồng. Trạng sư nói lại với vợ họ Đậu và Nguyệt Ba, vợ họ Đậu lật đật về nói lại cùng chồng, đặng lấy bạc ra đặng mà lãnh trẻ.
Họ Đậu nghe nói cười gằng song giả lơ, không thèm hỏi tới, bước lại ván phủi chơn ngồi tréo mảy mà ngâm rằng:
‘Bạc thế chưng tiền Trạng sư
Xưa kia lão biểu mụ đem từ
Mụ rằng con một không đành bỏ
Sự nghiệp ngày nay phải kể hư.”
Vợ họ Đậu nghe chồng ngâm như vậy, phát ghét muốn nói lợi, song nhẫn tâm làm thinh chăm chỉ đi lấy bạc, rồi lật đật ra cho kịp giờ hầu giao cho Trạng sư đặng mà lãnh Nghĩa Hữu.
Lãnh ra rồi, mẹ con tạ từ Trạng sư đem nhau về gia nội. Bước vào nhà, vợ họ Đậu hối Nghĩa Hữu: “Sao chưa lạy cha mầy mà tạ tội đi?”
Nghĩa Hữu liền cúi lạy; họ Đậu không thèm nói thốt chi cả, ngồi tréo mảy tay bưng chén trà, mắt ngó ra sân, ngụ tình xem cảnh. Nghĩa Hữu thấy vậy sợ sệt ríu ríu vào phòng, xảy gặp Nguyệt Ba đang ngồi bồng con mà khóc.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Nghĩa Hữu vào tới phòng thấy Nguyệt Ba ngồi bồng con mà khóc thì năn nĩ rằng: “Xin mẹ trẻ tưởng tình đừng trách móc, cho hay ta tơ tóc lỗi lầm, bây giờ đang ruột héo gan bầm, cay đắng khổ tâm biết mấy. Dầu mẹ trẻ không thương bỏ lẫy, trăm năm e chẳng thấy mặt nhau, nghĩa vợ chồng chẳng trước thì sau, ta há phụ cháo rau ơn bạn.”
Nguyệt Ba rằng: “Thiếp không phải ân tình bảng lãng, xét phận nầy chẳng đáng nưng khăn, chữ trinh kia đáng giá ngàn vàng, há chẳng thẹn với chàng cho đặng. Kể từ thuở thân nầy lâm nạn, tại Hà Hương kết oán thù thâm, mấy trăng dư xét phận phù trầm, cực khổ cũng cam tâm chịu vậy.
Thiếp chẳng trách chàng sao ở quấy, phận nam nhơn thiếp bảy thê ba, oán là oán Hà Hương đem dạ tinh tà, thù là thù Hà thị ké ma chước quỉ. Thời cũng tưởng thân nầy riêng lụy, may có người dõng sĩ cứu tha, công dưỡng nuôi công tợ hải hà, ơn cứu tử ơn đà đáng mấy.
Chừng nở nhụy cũng nhờ người lo chạy, cứng cát rồi đưa lại cố hương, có dè đâu mưu phản chận đường. Vì kế độc Hà Hương ám hại. Nhờ có sức ân nhơn cứu giải, giết hung đồ mắc phải tù lao, phận rủi may thiếp có kể nào, thương hại kẻ anh hào mang họa.
Thiếp cũng muốn giữ tròn danh giá, cho rõ lòng người ham cá quên nôm, rủi thay, tình cờ gió bụi nổi cơn, thiếp phải đem mình thiếp đền ơn chiếu cố. Vì nhớ tích Điêu Thuyền thuở nọ chuốt môi son tá trợ Hớn trào, nay gặp cơn binh địa ba đào, cậy má phấn cứu anh hào một thuở.
Bởi rứa cho nên chữ trinh tiết thiếp đà lầm lỡ, mặt nào không mắc cỡ với non sông, bấy lâu còn nương náo phòng không, vì chưa gặp mặt chồng giao trẻ. Lại thêm lúc chàng bỏ nhà vắng vẻ, thương mẹ cha quạnh quẽ không ai, thiếp náo nương hôm sớm đôi ngày đáp thúc ơn dày nghĩa trọng.
Nay chàng đã khỏi nơi la võng, thiếp chẳng còn luyến vọng chỉ hồng, nầy cpn thơ chàng khá ẵm bồng, thiếp nhảy xuống giữa dòng cho rạng.”
“Mẹ trẻ nói sao không rộng lượng, hễ thương con phải tưởng đến chồng, bấy lâu mà phân cách tây đông, vì nguyệt lão tơ hồng cắc cớ. Ngày nay đã duyên xưa gặp gỡ, nàng lại mong kẻ Sở người Tần, cho hay rằng trong cuộc ái ân, chữ trinh ấy là thân hiền nữ.
Biến thường ấy cũng điều thế sự, kinh quyền nầy là dự hồng nhan, như nàng gìn chữ hiếu vẹn toàn, chữ trinh mất chẳng can chi đó. Khá suy nghiệm lẽ đời cho rõ, mấy ai từng giận đó bẻ đăng, làm sao đừng lỗi thửa đạo hằng, dường ấy mới là hiền đức.
Kia cha mẹ mừng con chưa dứt, nàng nỡ đi tính bức cho đành, dầu cho nàng chẳng nghĩ nợ ba sanh, há quên đạo sanh thành làm trọng. Nhành dâu ấy mai chiều xế bóng, biết cậy ai tối vọng sớm thờ, con nàng đây còn hỏi bé thơ mất mẹ ắt u ơ bố cốc. Rủi kế mẫu có loàng sâu độc, mắng chửi con đứa ngốc thằng ngu, nàng dầu toan trốn nợ đặng ru oan gia ấy ngàn thu chưa mất.”
“Xin chàng hãy bớt lời khuyên dứt, thêm nhiều cơn buồn bực riêng tây, thiếp thoát thân cho khỏi kiếp nầy, kiếp sau nữa hoặc may có gặp.”
Nguyệt Ba đang nói tới đây, xảy nghe có tiếng mẹ chồng kêu, lật đật bồng con chạy xuống. Vợ họ Đậu biểu Nguyệt Ba để con ở nhà, đi với hai đứa đày tớ ra Chợ Giữa đòi bắp, vì mấy chủ hỏi tiền bắp đều hẹn ngày nay trả đủ, nếu không đi, e sau đòi không đặng.
Nguyệt Ba vâng dạy ra đi, chẳng dè thằng con nhào lăn đòi theo với mẹ. Nguyệt Ba trở vào, bước lại bồng con hun hít một hồi rồi nói rằng: “Con ở lại nhà cùng bà nội, để cho mẹ đi …” nói tới đây nước mắt rưng rưng, song cũng gượng cười, ẵm con đưa cho mẹ.
Nguey65t Ba ra đi, và đi và tính, tính hơn thua tính tới tính lui, nhứt định rồi đau dạ sụt sùi, cực chẳng bằng đã, chớ thật thương trẻ ngậm ngùi không nỡ bỏ. Khi đi tới cầu Chợ Giữa, Nguyệt Ba mới bảo hai đứa đày tớ “ Bây gánh gánh trước đi, để tao đại tiện noi theo sau cũng kịp.”
Hai đứa đày tớ ngỡ thật, vưng lời, Nguyệt Ba ngừng lại giữa cầu ngồi than khóc giây lâu, rồi gieo mình xuống nước.
Nói về hai đứa đày tớ, đi tới bóng mát đứng lại đợi Nguyệt Ba, dòm lại ngó chừng, xảy thấy Nguyệt Ba sa xuống. Ở xa ngó ngỡ là Nguyệt Ba trật chơn nên té, bởi vậy cả hai đua nhau chạy tới la làng, bởi làng xóm ở xa, nên la cả buổi mà chưa thấy người tiếp cứu.
Nguyệt Ba thì nỏi lên hụp xuống đôi ba phen rồi mới chìm luôn, hại thay, khối tình đành trôi nổi giữa giòng, thù oán nặng hết trông trả đặng!
Một chặp làng xóm chạy tới, xúm nhau lặn hụp mằn mò, còn hai đứa đày tớ cong lưng chạy riết về nhà, phi báo cho ông bà tường hãn.
Vợ họ Đậu đang ngồi chơi với cháu, thấy đày tớ chạy về thở không ra hơi, thất kinh hỏi lớn rằng: “Chuyện gì, chạy đi đâu dữ vậy?”
Hai đứa thưa rằng: “Không xong rồi, bà ôi, mợ hai đi với hai đứa tôi, lúc tới cầu Chợ Giữa, mợ hai biểu hai đứa tôi tới trước kia đứng đợi, xảy thấy mợ hai sa xuống nước. hai đứa tôi la làng chói lói, mà không ai tới cứu kịp giờ, mợ hai đã chết chìm, làng xóm còn đang tìm kiếm.”
Vợ họ Đậu nghe nói thất thanh ngã lăn xuống đất, họ Đậu cũng đã thất kinh, Nghĩa Hữu đấm ngực dậm chưn, tức ấm ách nói không ra tiếng. Giây lâu tỉnh lại, vợ họ Đậu sai trẻ tuốt qua cho vợ chồng Trần Quế hay, rồi đề huề kéo nhau ra Chợ Giữa.
Ra tới nơi làng xóm đã mò đặng thây Nguyệt Ba đem lên để nằm trên cầu, rồi tuốt ra báo quan Biện lý. Thây Nguyệt Ba tuy là hồn nương dị lộ, mà nhan sắc chẳng kém phai, hai mắt cứ mở hoài, thác mà không hay nhắm.
Vợ chồng Trần Quế tới thấy thây con, ôm khóc vang trời, vợ chồng họ Đậu thương dâu, rên than động đất, Nghĩa Hữu cũng ôm vợ mà khóc kể, song Nghĩa Hữu khóc chừng nào, máu mũi Nguyệt Ba trào ra chừng nấy.
Người lối xóm tựu tới thấy vậy cũng mủi lòng, nhỏ lớn điều sa nước mắt. Có kẻ nói: “Sao Nghĩa Hữu không vuốt mặt nàng cho nhắm lại?”
Nghĩa Hữu liền bước lại vuốt mặt Nguyệt Ba, chẳng dè mắt không nhắm mà máu lại càng trào ra, làm cho trẻ già coi thất vía. Vợ chồng Trần Quế vuốt cũng chẳng nhắm, vợ chồng họ Đậu vuốt nhiều bận cũng không linh, có kẻ nói hay là Nguyệt Ba còn nuối con, nên chết mới không nhắm mắt.
Ai nấy đều lấy làm phải, sai trẻ về bồng Thoàn ra, tới nơi thả xuống; tội nghiệp tuổi bé thơ chưa biết, kiếp chết ấy là gì. Thoàn cũng tưởng như mọi khi, tay nắm áo, miệng lại kêu: “Má, Bú!” Mắt Nguyệt Ba liền nhắm, máu mũi trào đọng vũng khá thương, Trần Quế càng như cắt cang trường, vợ chồng họ Đậu xôn xang tợ như kim châm dạ.
Một chặp xảy thấy quan Biện lý ngồi xe đi với quan thầy thuốc vào khám tử thi, rồi cho vợ chồng họ Đậu lãnh thây về chôn cất. Tống chung rồi, vợ họ Đậu lo việc nuôi cháu, còn họ Đậu rầu dâu bỏ phế việc nhà, tuổi tác đã già, cơm cháo không ăn, mang bịnh chưa mấy ngày đã thác. Tống táng xong xuôi, lụi đụi ít ngày có trát đòi Nghĩa Hữu.
Vợ họ Đậu lo gởi cháu, đặng mà theo cùng Nghĩa Hữu tới tòa, thảm thay, thời hư quỉ lộng phá nhà, của hết thân ra tro bụi!
Tới ngày Nghĩa Hữu tựu tòa, có Trạng sư Bọt-tre ủng hộ. Khi tòa hỏi Nghĩa Hữu lại minh bạch rồi, quan Biện lý liền đứng dậy, hài tội Nghĩa Hữu ra như vầy:
“Các quan ngồi thế mặt cho phép công bình, chẳng phải không thấy sự tinh tệ của Nghĩa Hữu mà minh đoán. Chắc là các quan cũng đã hiểu thấu như tôi vậy, nhưng bởi tôi á vị dân Pháp, ngồi đây mà thay mặt cho dân, chẳng lẽ chẳng phân biện rõ ràng thì làm sao rằng danh chánh.
Như Nghĩa Hữu, theo lời tra vấn của quan Bồi thẩm, xét theo lời khai các khoản trong vụ Hà Hương, quả là tay đa tình hiểm độc. Trước hết cưới Hà Hương làm vợ, bởi Hà Hương làm dâu không chính thẳng, heo cờ bạc điếm đàng, Nghĩa Hữu cũng rõ vậy chớ lẽ nào không, mới kiến đến điều phân ly phu phụ. Để rồi đi cưới Nguyệt Ba – sự tráo đổi trẻ – Nghĩa Hữu nói rằng không biết – cho rằng phải đi – chớ như chuyện Hà Hương trai trên gái dưới có lẽ nào lại không hay.
Đã dễ đả bỏ, đi cưới vợ khác là Nguyệt Ba, ở với nhau đà kiết tử nhâm thần, cớ sao lại bỏ mà theo Hà thị. Lấy đó mà suy thì Nghĩa Hữu là thằng gì?
Khi Trạnh, Hồ và Đạo ba thằng giả làm bần nhơn đến cửa xin ăn, lãnh đi bạn chèo ghe mà hại Nguyệt Ba. Nghĩa Hữu khai rằng cơ gian không thấu; lời khai ấy là lời dối phép đó. Vả chăng trước khi ba đứa đến nhà Nghĩa Hữu, thì Nghĩa Hữu đã có vãng lai với Hà Hương rồi chẳng phải chưa, có vãng lai sao lại không biết mặt ba đứa ấy, sao lại không rõ nó là bọn tay chưn bộ hạ của Hà Hương, dầu cho chúng nó có bôi lọ ngậm than mà giả hình giả dạng đi nữa Nghĩa Hữu cũng chẳng nhầm.
Mà thôi, Nghĩa Hữu nói một hai không thấu, cũng cho rằng phải đi; còn như khi chúng nó hại Nguyêt Ba rồi trở về nhà Hà Hương, Nghĩa Hữu cũng không biết nữa sao? Khi Nguyệt Ba đi bặt tích, cả nhà đều vang tiếng ruồi xanh, một mình Nghĩa Hữu là chồng mà chẳng động tình, bỏ qua bên Hà Hương ở bển.
Hại rồi ba đứa trở về nhà, gặp Nghĩa Hữu ở đó, có lẽ nào Nghĩa Hữu không biết mặt chúng nó. Biết mà chẳng nói, biết mà làm thinh, tòa nghĩ coi có phải Nghĩa hữu đồng tình cùng Hà thị chăng?
Còn một khoản khác nữa là khi Nguyệt Ba sai ó đem thơ vào – Nghĩa Hữu khai rằng khi ấy không có ở bên Hà Hương nên không gặp mặt Ó – lời ấy có chi làm bằng chăng? Chắc là không – chớ như tôi nói khi ấy có mặt Nghĩa Hữu ở đó, thì có lý và có cớ chắc chắn. Tòa nghĩ như khi Nguyệt Ba còn tại gia, Nghĩa Hữu còn ăn dầm nằm dề bên Hà Hương thay, huống chi Nguyệt Ba lâm hại rồi, có lý nào Nghĩa Hữu lìa Hà Hương cho đặng.
Ví như Nghĩa Hữu không có ở đó, thì khi ấy ở đâu? Lời cha mẹ Nghĩa Hữu nói rằng khi Nguyệt Ba lâm hại rồi, Nghĩa Hữu ít khi về nhà cha mẹ. Lại thêm khi Hà Hương sai ba đứa di ngừa đàng mà giết Nguyệt Ba cho bặt tích theo như lời Đạo đã thú thiệt, Nghĩa hữu có tại nhà Hà Hương, sao Nghĩa Hữu lại không hay;
Nghĩa Hữu nói rằng không hay, thấy vắng mặt hỏi thăm, Hà Hương nói đã đuổi hết – ấy là lời Nghĩa Hữu khi quan đó!
Theo như mấy khoản tôi đã luận ra đây, thì Nghĩa hữu a ý cùng Hà Hương mà hại Nguyệt ba không còn nghi ngờ chút nào nữa, vì Nghĩa Hữu quyết chí vợ chồng cùng hà Hương mà thôi. Sự dễ Hà Hương cưới Nguyêt Ba là bất đắc dĩ, Nghĩa Hữu vâng theo ý cha mẹ, chớ kỳ trung không vui không đẹp.
Lời tôi luận đây chẳng phải vô cớ – còn có chỗ xét tới nữa. Khi Hà Hương và Nguyệt Ba cả hai đều bị cầm ngục, Nghĩa Hữu còn thương tưởng Hà Hương nhiều lắm (Ấy là lời Nghĩa Hữu khai cùng quan Bồi thẩm đó) thương cho đỗi lừa lọc kiếm thế đi thăm Hà Hương cho thấy mặt, nói một việc đi thăm Hà Hương mà thôi chớ không nghe nói đi thăm Nguyệt thị.
Lấy đó mà suy thì Nghĩa Hữu coi bên nào trọng bên nào khinh thì tòa biết, cho hay rằng Nghĩa Hữu ở với Nguyệt Ba đã có con.
Nghĩa hữu nói rằng không có dẫn Hà Hương đi trốn – nếu không phải Nghĩa Hữu thì ai – còn ai thương Hà Hương hơn Nghĩa Hữu nữa mà làm ra sự ấy?
Tòa phải nhớ rằng buổi Hà Hương trốn có Nghĩa Hữu theo vô tới tòa – khi mất Hà Hương thì mất Nghĩa Hữu, vậy thì hai đứa đi đâu? Việc nầy sáng rỡ như ban ngày, tối tăm gì mà phải cậy đuốt soi hang tối?
Nghĩa Hữu từ chối, không chịu chỉ Hà Hương bây giờ ở đâu, không chỉ cũng chẳng cần, xin tòa chiếu theo luật, lấy án Hà Hương mà nghiêm răn Nghĩa Hữu. Dường ấy mới nhằm phép công bình, dường ấy mới an lòng Nguyệt Ba nơi chín suối.”
Vừa dứt lời, quan Trạng sư Bọt-tre bước ra bào chữa cho Nghĩa Hữu rằng: “ Tôi là Trạng sư vưng lãnh bào chữa cho bị cáo. Trước khi phân giải mấy lời cáo của quan Chưởng lý, tôi xin nhắc lại cho tòa nhớ rằng Nghĩa Hữu là gì.
Tòa coi lấy đó nỡ thật là một thằng con nít dại đặt chưa nếm biết mùi đời chút nào cả. Đã hay rằng Nghĩa Hữu là con nhà giàu, song nó là con cưng, sanh trưởng nơi rẫy bái, thiếu sự ăn học, lớn mà thiếu học còn chưa đủ điều thay huống lựa nó là một thằng con nít.
Đã dốt nát thì chớ lại thêm mới mười chín hai mươi cha mẹ đà lo cưới vợ. Cưới vợ về ăn hay ăn, ngủ hay ngủ, sẵn tiền đắp đầu gối thì xài, biết gì, bởi vậy Hà Hương mới buông lung thả theo điếm đàng cờ bạc.
Nếu như nó khôn, Hà Hương buông lung sao đặng. Đã đến đỗi ấy mà cũng còn thương yêu Hà Hương, bỏ hết mọi điều quấy, đến chừng cha mẹ biểu để cũng nghe lời để, không suy nghĩ chút nào cả.
Tòa biết rằng có tình thương nào cho bằng tình nghĩa vợ chồng, Nghĩa Hữu thật thương Hà Hương vô giá, ví như ai mà thương yêu nhau như vậy để bỏ nhau sao đặng, mà Nghĩa Hữu nghe lời cha mẹ bức bỏ tình thương đặng, lấy đó mà suy thì Nghĩa Hữu quả là vô tâm vô trí đó.
Quan Chưởng lý buộc rằng Nghĩa Hữu a ý cùng Hà Hương mà hại Nguyệt Ba, điều ấy là điều vô bằng vô cớ, lại thêm từ đầu chí cuối, không nghe lời khai nào mà có Nghĩa Hữu ở trỏng, mà cũng chẳng nghe ai kêu nài Nghĩa Hữu a ý với Hà Hương; ấy vậy thí dụ Hà Hương mà hại Nguyệt Ba, Nghĩa Hữu phi phận sự.
Khoản chót quan Chưởng lý buộc rằng Nghĩa Hữu dắt Hà Hương đi trốn, chẳng hay điều ấy có chi làm bằng cớ ra chăng? Quan Chưởng lý vẫn biết và đã có nói Hà Hương là một con sớm đào tối mận, biết nói sao không biết xét, để mà vu oan cho người.
Như thế thì chẳng phải một mình Nghĩa Hữu thương Hà Hương, hãy còn nhiều người tình khác nữa. Mà trong bọn tình của Hà Hương, tòa có biết ai thương Hà Hương hết chăng? Chắc là không biết, vậy chẳng nên nói rằng Nghĩa Hữu thương Hà Hương mà dẫn đi.
Buổi Hà Hương trốn, nói rằng Nghĩa Hữu tới tòa, lời ấy tôi chẳng cãi, song tòa phải xét rằng chẳng phải một mình Nghĩa Hữu tới đó, có cai có bếp có chức việc làng có đủ thầy thông thầy ký, thình lình mất Hà Hương, mất Nghĩa Hữu, tòa nói rằng Nghĩa Hữu dẫn Hà Hương đi, ví như thiếu mặt một thầy thông nào đó, tòa mới nói làm sao?
Chừng ấy khi tòa nói Nghĩa Hữu với thầy thông a ý dẫn Hà Hương đi nữa sao? Dường ấy chẳng là oan cho người lắm.
Nghĩa Hữu bỏ xứ mà đi cũng vì việc vợ con chẳng xong, như ai có trí khôn thì không đến đỗi bỏ đi, chớ như Nghĩa Hữu, tôi đã nói nó là một thằng con nít vô tâm vô trí. Con nhà giàu, sung sướng gấm gan, bỏ đi đâu cho cực khổ như vậy?
Cũng vì buồn bực nên bỏ đi, tưởng đi làm ông gì, chẳng ngờ đi làm lục lộ. Đây tôi sẵn có thơ quan Tham biện Trà Vinh làm bằng. Lời khai của Nghĩa Hữu qua Trà Vinh làm lục lộ quả như vậy, ở đậu nhà thầy đội làm lục lộ cũng có, trong thơ nói một mình Nghĩa Hữu ở đậu với thầy đội chớ không nói có Hà Hương; như vậy nếu tòa mà buộc Nghĩa Hữu dẫn Hà Hương đi chẳng là oan cho nó lắm.
Vậy xin tòa hãy tha Nghĩa Hữu ra, dường ấy mới trúng phép công bình chánh quốc.”
Trạng sư bào chữa xong rồi, quan lui vào thẩm án giây lâu, trở ra tha Nghĩa Hữu. Nghĩa Hữu lạy tạ lui ra, mẹ con từ giã Trạng sư rồi đem nhau về gia nội.
Về nhà, Nghĩa Hữu vui mừng bày tiệc đãi đàng lối xóm. Từ đây Nghĩa Hữu rảnh rang mọi việc, thả luống theo cờ bạc điếm đàng, ngày thì đổ bác môn trung, tối dựa thanh lâu tửu điếm. Không xét xem gia đạo, không tính việc làm ăn, gia thế càng ngày càng hao mòn, đến đỗi thiếu sau hụt trước.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Nói về Hà Hương, rầu lo không xiết kể, đã biết khi ở bót bước ra về, có nháy Nghĩa Hữu, song chẳng biết Nghĩa Hữu có ngụ ý mà hiểu chăng. Bởi vậy nàng lo sợ đến đỗi mang bịnh, tóc biếng gở trâm biếng cài đến chừng nghe quan phái người giải Nghĩa Hữu về Bến Tre lòng mửng khấp khởi, nhưng mà cũng còn sợ, sợ là sợ cho Nghĩa Hữu khi về tới Bến Tre bị tra khảo mà khai thật, thì nàng lánh chẳng khỏi ọa to.
Tuy là lo sợ như vậy mặc dầu cũng cứ để lòng, không dám hở hơi cho ai biết, cứ mỗi ngày lo việc cấp dưỡng cho Ái Nghĩa đến khi lành bịnh trở về.
Mẹ Ái Nghĩa thấy Hà Hương ở với con mình đã có thai, lại thêm chẳng nài công khó nhọc cùng Ái Nghĩa nên thương. Bởi vậy khi Ái Nghĩa lành bịnh trở về, mẹ mừng con không xiết, giả bộ rầy sơ đôi lác rồi bảo Ái Nghĩa phải đem Hà Hương về nhà không cho riêng tư như trước mà sanh chuyện.
Ái Nghĩa mừng, lật đật vưng dạy, tới chở hết đồ đạc và đem Hà Hương với con đày tớ là thị Hoa về nhà. Kể từ đây Hà Hương làm bộ dâu hiền, tôn ti nhạc mẫu, càng ngày càng lâu, mẹ Ái Nghĩa càng thương nhiều hơn nữa.
Thoảng mãn ngày qua tháng lại, Hà Hương đã khai hoa, sanh ra đặng một trai đặt tên là Ái Nhơn, mẹ con Ái Nghĩa tưng tiu dường như ngọc. Đến chừng Ái Nhơn đặng ba tuổi, Ái Nghĩa phát bịnh nặng, phần sức đã yếu, phần mấy chỗ vít tích đau trở lại nữa, nên chạy thầy đủ các phương, thuốc uống không biết mấy thứ mà bịnh không thuyên, đến chừng trầm trệ thới quá, bèn sai Hà Hương thỉnh mẹ vào trối rằng: “Vì con bịnh ngặt, không ngồi dậy đặng, lạy mẹ mà tạ tội bất hiếu của con, xin mẹ tha thứ. Nay con biết mình con không lẽ sống, nên con muốn thưa cùng mẹ mà xin đôi điều, như mẹ vui lòng cho, con mới đành nhắm mắt.
Vả khi cha con thệ thế rồi bỏ mẹ và con mồ côi lại, con thì còn thơ, nhà thì không của, không đủ đắp đổi cho qua ngày tháng, nhờ mẹ có lòng thương con vô giá, nên mẹ mới trực tiết thờ chồng buôn bán nuôi trẻ cho đến khôn lớn, lập nên sự nghiệp, dư để dư ăn;
Con lớn khôn rồi, tốn của mẹ thì có chưa thấy chỗ cậy nhờ, con lại tự đắc tự cang, chẳng đợi mẹ định đôi lứa. Làm cho đến đỗi mang tai mang nạn, làm cho đến đỗi mẹ phải rầu lo, thật là lỗi con đã dẫy đầy, tội con đáng muôn kiếp thác.
Vậy mà mẹ lại có lòng hà hải, nhẫn tâm tha thứ cho con, mẹ nhìn dâu đem về, nhờ đức mẹ mới sanh nam tử. Nay bịnh con xem càng trọng, thế cầm không đậu lâu ngày, vây xin mẹ có lòng thương con, hãy tưởng tới dây, trước vậy sau vậy nuôi chút cháu để sau mà lập tự. Dầu con có thác, hồn về chín suối ở an khỏi lo con trẻ lạc đàng, mừng cho mẹ có dâu hôm sớm.’
Ái Nghĩa nói rồi hai hàng rơi lụy, mẹ Ái Nghĩa ôm con khóc òa, lòng mẹ thương con, thiết tha dường như muối xoát.
Ái Nghĩa liền kêu vợ ẵm Ái Nhơn lại kề, đưa tay lên rờ mặt Ái Nhơn mà nói rằng: “Con mới nên ba, chịu mất cha rất thảm”.
Nói rồi lại kêu Hà Hương mà trối rằng: “Nàng với ta tuy là thình lình gặp gỡ, song cũng bởi nợ trời xui mới vầy nên cuộc trái oan, phước trời dành để đôi đàng, sanh đặng chút trẻ nối họ hàng chẳng đức.
Nay ta vô phước, chẳng hưởng thọ đặng lâu dài, bỏ mẹ con nàng lại đây, mẹ góa con mồ côi, thiệt lòng ta không đành vậy. Bởi mạng trời đã định chãy đi đâu cho khỏi lưới trời, vậy thì nàng hãy nghe ta trối lại đôi lời ghi lấy mà ở đời, chớ toan phụ bạc.
Như buổi mới gặp thì chẳng nói chi, chớ mấy năm nay nàng nhập gia, mẹ hết dạ thương dâu hiền có đạo. Ta có thác rồi, nàng khá tưởng tình xưa nghĩa cũ, thay mặt cho ta mà cung phụng mẹ già, đây sẵn của sẵn nhà bậu ở vậy mà nuôi trẻ, đừng cải giá làm chi tội nghiệp.
Nuôi con cho khôn lớn cho học đạo thánh hiền, phước dầu nên rạng tổ rạng ite6n, nàng cũng chẳng mất phận mẹ hiền con thảo.” Hà Hương nghe Ái nghĩa trối như vậy động lòng, ôm chồng mà khóc òa, khóc đến đỗi máu ra nước mắt.
Đoạn Ái Nghĩa mới kêu thị Hoa mà dặn rằng: “Mi là phận tớ nhà phục sự, phải gìn lòng trung cùng chủ hiếu cùng thầy, ta có thác rồi, mi cũng cứ ở đây, coi mà săn sóc giùm lấy cháu, kẻo mà nó còn hãy thơ ngây chưa biết.”
Thị Hoa nghe Ái nghĩa dạy như vậy thì khóc lớn mà thưa rằng: “Xin cậu hãy dưỡng an quới thể, đừng lo phận tớ bất trung, tớ tuy bất tài, song nguyện ra sức bảo an thê tử cho cậu.”
Trối đủ mọi điều, Ái Nghĩa ngước mặt lên, cả tiếng kêu trời rồi tắt hơi nhắm mắt. Cả nhà đều xúm lại than khóc, thương tiếc không cùng, rồi kẻ thì lo mua hòm, kẻ thì lo rước nhà vàng cùng là đạo tùy sửa sang mai táng.
Tống chung rồi Hà Hương cứ việc ở vậy nuôi con cung phụng mẹ chồng như thường, không sai một nét; còn mẹ Ái Nghĩa, rầu con khóc hoài. Hà Hương và thị Hoa khuyên dứt hết sức chẳng đặng, khóc đến đỗi hai con mắt lu bù, bỏ cơm bỏ cháo. Tội nghiệp tuổi già sức yếu, xương thịt gầy mòn, cũng còn rầu hoài, mãn rầu mà sanh bịnh.
Hà Hương lo sợ hết sức thuốc men hơn môt tháng chẳng lành, đến đỗi phải bỏ mình, sức cầm chẳng nổi. Một mình Hà Hương và thị Hoa lo bề cấp táng, xong rồi Hà Hương hưởng trọn gia tài, ăn rồi ở không, cứ lo bề nuôi trẻ.
Chẳng khỏi bao lâu tới tuần bá bá nhựt của Ái Nghĩa, bữa nọ đang buổi sớm mai, Hà Hương sửa soạn đi chợ đặng mua sắm lễ vật làm tuần. Khi sửa soạn rồi, lấy bạc bỏ túi, tay dẫn Ái Nhơn, miệng thì dặn thị Hoa coi nhà tử tế.
Qua vừa khỏi cầu, xảy thấy đàng xa đi tới, một người đờn ông, đầu bịch khăn nhiễu trắng, mình bận áo bà ba, quần châu xá, chơn không mang giày, tay dẫn một đứa con trai nhỏ ước chừng sáu tuổi, đầu đội nón rơm, mình mặc áo trừu, quần lành, chơn mang giày hàm ếch, hình như hai cha con, đem nhau đi dạo phố. Bộ đi thơ thẩn dường như chàng Kim rải kiếm Kiều nhi, mặt héo dàu dàu, nỗi thảm tợ chim lẻ bạn.
Chừng đi tới gần, Hà Hương thấy quả Nghĩa Hữu lấy làm lạ, nửa mừng nửa sợ, ý cũng muốn giả lơ không hỏi, nhưng mà nghĩ tình xưa nghĩa cũ chẳng đành lòng. Bởi vậy Hà Hương mới cả tiếng chào rằng: “Ủa nầy Nghĩa phu tướng đi đâu đó vậy!”
Nghĩa Hữu nghe hỏi, giựt mình ngước mặt lên nhìn thấy một người đờn bà nhan sắc đẹp đẽ, đầu bịch khăn tang, mình mặc áo xuyến đen, quần chế, chơn không mang giày mang guốc, tay thì xách rổ, tay lại dẫn con, nhìn lâu mới biết là Hà Hương, bèn hỏi: “Ủa nầy Hà ái nương, để tang cho ai đó vậy?”
Hà Hương đáp: “Thiếp để tang cho mẹ chồng và chồng; chỗ nầy chẳng tiện nói năng, xin mời về nhà đàm đạo.”
Nói rồi Hà Hương quày gót trở lại, đem Nghĩa Hữu về, Nghĩa Hữu theo tới nhà, bước vào thấy một cái nhà nền cao ba căn hai chái, trên lợp ngói dưới tô tường, ngoài ngõ có rào, trong vườn hoa đẹp đẽ. Khi vào rồi, Hà Hương mời Nghĩa Hữu ngồi, kêu thị Hoa pha trà mời Nghĩa Hữu.
Ban đầu thị Hoa ngỡ là khách nào, đến chừng bưng trà lên tới cửa buồng thị Hoa khoát màn thấy Nghĩa Hữu, bèn thối lui mà nghĩ thầm rằng: “Thằng nầy là thằng đâm chủ ta khi trước, nhưng mà bởi mợ ta dặn dò nên ta chẳng chịu khai. Nay nó lại tới đây, quyết choán gia tài của cải đây chăng?
Ái Nhơn còn nhỏ dại, khi chủ ta ngặt mình có trối gởi cho ta, ví như mợ ta mà tưởng nguyệt màn hoa, thì ta mới biết liệu kế chi mà giải cứu. Chớ xuất kì bất ý, để đến rồi ta kiến cơ nhi tác mới hay. Bây giờ đây phải đui mắt điếc tai, nếu mà lộ mối ra, mưu kế nó đặt bày, dầu cho trí Gia Cát cũng khó mà giải khai cho đặng.”
Nghĩ vậy rồi, thị Hoa mới bưng trà ra mời Nghĩa Hữu, rồi xây lưng trở vào, háy nguýt hình như muốn ăn gan Nghĩa Hữu.
Nghĩa Hữu ngồi uống trà, hỏi thăm gia đạo Hà Hương, Hà Hương tỏ thật mọi điều, Nghĩa Hữu nghe Hà Hương nói hưởng trọn gia tài, có lòng mừng, mừng là mừng chim còn chỗ đậu. Nghĩa Hữu nghe rồi mới đem hết việc tâm sự mình thua hết gia viên điền sản, cha con mới bỏ xứ tới đây, nói rồi lại bom đổ Hà Hương – xin tưởng cuộc hoa xưa ong cũ.
Cái nghề góa chồng nhỏ khác nào gốc nằm khô trông cho nước tưới thâm da; vậy mà Hà Hương không chịu, nói làm như vậy sợ người ta đàm tiếu, tuy nói khó mà miệng cười coi bộ dễ, lại kêu thị Hoa mà biểu bồng Ái Nhơn đi chợ mua ăn, một mình ở nhà, trò chuyện lại qua cùng Nghĩa hữu, Nghĩa Hữu lóng nầy cũng như chim cũ tìm ổ, bởi vậy cứ theo ràng rịt Hà Hương, cái nghề vợ chồng, hễ muốn ngọt thì thêm đường, muốn mặn nồng thì thêm muối ớt.
Hà Hương chịu không nỗi, bèn làm bộ bỏ đi thẳng vào phòng, ngoài mặt thì tỏ ý ghét bỏ đi, trong lòng thật đem đường cho Nghĩa Hữu; Nghĩa Hữu tuốt theo, vào thấy nệm êm gối dịu, rất phải cho người (biết điệu) nghỉ ngơi, ở đời ai lại chẳng rõ cuộc đời, Nghĩa Hữu vào đó cũng tợ dạo chơi cung nguyệt.
Khi Nghĩa Hữu theo hà Hương vào phòng, chập lâu thằng cn Nghĩa Hữu là thằng Thoàn, thấy vắng mặt cha kêu khóc. Nghĩa Hữu cười và nói rằng: “Nín đi con, đứng đó chơi rồi ba ra, không sao đâu mà sợ.”
Thoàn nghe tiếng cha nói liền hỏi lại: “Ba làm gì trỏng?”
Nghĩa Hữu nghẹn ngào phải chịu làm thinh, không biết sao mà nói lại!
Đến chừng thị Hoa ẵm Ái Nhơn về, bước vào cửa, Nghĩa Hữu mới chịu ra, còn Hà Hương nằm trong làm thinh không lên tiếng. Thị Hoa thấy Nghĩa Hữu ở trong phòng bước ra, sực nhớ lời chủ trối, dạ càng buồn, cúi đầu đi thẳng ra sau, không thèm ngó mặt.
Một chặp, Ái Nhơn khóc, Hà Hương mới lât đật chạy ra bồng, thấy mặt thị Hoa buồn dàu dàu thì biết nên không dám hỏi tới, cứ lấy lời ngọt dịu mà nói với tỏ ý mơn trớn thị Hoa, song thị Hoa cũng chẳng màng, cứ làm thinh suy tính.
Chiều lại, cơm nước hầu xong, Hà Hương biểu thị Hoa coi dọn dẹp cho xong đặng có dỗ Ái Nhơn ngủ sớm. Thị Hoa vâng lời, sắp đặt việc nhà rồi, bồng Ái Nhơn lên võng mà đưa ngủ. Khi ấy Hà Hương lo đóng cửa gài then rồi cùng Nghĩa Hữu vào phòng đàm đạo.
Thị Hoa nằm trên võng nghe tiếng cười tiếng giỡn, biết rằng Hà Hương sa đắm nguey65t hoa, nên thị Hoa ngó mặt Ái Nhơn sa nước mắt, giây lâu lại cất tiếng lén nói thơ đưa Ái Nhơn ngủ, đặng mà biếm Hà Hương mấy câu như vầy:
“Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa,
Hổ han vậy cũng người ta
So loài cầm thú vậy mà khác chi.”
Hà Hương nghe, biết thị Hoa giận mà châm chích mình, song Nghĩa Hữu vô tình, không hiểu tới. Hà Hương buồn, Nghĩa Hữu thấy vậy hỏi: “Vợ chồng bấy lâu nay cách mặt, nay trời xui lại hiệp một nhà, lẽ thì mừng vui như bướm ngộ hoa, sao mà buồn bực nghĩ ra cũng lạ?”
Hà Hương đáp rằng: “Vợ chồng cách nhau đã lâu, nay còn gặp gỡ nhau đây, thiếp vui mừng quá đỗi, lẽ đâu thiếp lại buông, song thiếp nghĩ Ái Nghĩa chết chưa đầy ba tháng mười ngày, để gia tài lại cho thiếp ăn chẳng thiếu, thiếp mà làm ra cớ sự ni, thị Hoa không vui dạ, đến kỳ làm tuần đây, chi cho khỏi người nầy người kia tới, chỉnh e miệng thế khó ngừa, vẫn biết thiếp cùng chàng hoa cũ ong xưa, nhưng mà họ không rõ, họ tỉ phận thiếp như đò đưa khách.”
Hữu rằng: “Nàng chớ khá phiền lo chi nhọc, điều ấy chẳng khó gì, nếu biết câu phu xướng phụ tùy, nghe lời biểu việc chi cũng để. Như thị Hoa, vẫn biết đạo tôi tớ lòng không ở tệ, nhưng mà ngày nay xem không nể chủ nhà, muốn biểu nàng ở vậy tới già, giữ chữ tiết thành ma không bạn.
Xét lẽ ấy tội kia đã đáng, nhưng mà nghĩ vì công cán đã dày, ấy cũng bởi lòng ngay, chẳng lẽ giận nay đuổi lẫy. Mai nàng biểu nó toan liệu lấy, muốn ơ thì ở vậy cho an, bằng mà muốn tự can, thì ra đàng cho tiện. Còn như việc thê thưởng nhiều chuyện, nàng sợ người dụm miệng dèm pha, vậy thì làm chi cho rộn trong nhà, đa thiểu cũng là lòng thảo. Đừng mời ai đông đảo, cứ hiếu đạo mà làm, nấu chừng đôi ba mâm, đốt vài trăm giấy áo.”
Hà Hương chịu vâng ý, đoạn hai đàng nương gối chung phòng, kẻ toại chí người vui lòng, bỏ lúc vợ chồng xa cách.
Sáng ngày, Hà Hương xuống nhà sau kêu thị Hoa lại mà phân rõ đầu đuôi tự sự, lại bảo thị Hoa y như lời Nghĩa Hữu đã nói với nàng, thị Hoa nghe qua liền biết là kế của Nghĩa Hữu, muốn bày đuổi mình ra cho khỏi, bèn nghĩ: “Ví như mình mà ra khỏi cửa nầy cũng phải rồi, chẳng chi mà tiếc, ngặt một điều mình bỏ ra đi, tội nghiệp Ái Nhơn, đạo làm tớ chẳng hết lòng, phụ lời chủ ngày xưa phú thác. Chi bằng giả hình ngơ mắt, nương theo đây mà dìu dắt Ái Nhơn, ngày sau dầu đặng gặp cơn, mấy nỗi oán hờn lo trả.”
Nghĩ như vậy, bèn thưa cùng Hà Hương rằng: “Tớ đâu dám thay lòng đổi dạ, ơn chủ gia lo trả hằng ngày, tuy nữ nhi cũng rõ đạo tớ thầy, há chẳng biết thảo ngay tạc dễ. Kể từ thuở Cậu Tư thệ thế, nhà cửa xem vắng vẻ trước sau, nhớ chủ gia dạ héo dàu dàu, tưởng ơn trước ra vào khoản khoái. Nhìn mặt mợ đôi hàng lụy sái, cảm cho thân trẻ dại mồ côi, dầu chết thân cũng nguyện đền bồi, cho thỏa dạ cậu Tư nơi chín suối.
Kể từ bữa thấy chủ lạ, lòng tôi thêm tủi, tủi là tủi cho thân may rủi không thường, chẳng biết vậy mà người có dạ thương, cho phận tớ náu nương cùng chẳng? Sợ một nỗi nhiều lời cay đắng, lo một điều chửi mắng khổ tâm, bởi vậy cho nên ruột héo gan bầm, nghĩ mấy nỗi tủi thầm trong dạ.”
Hà Hương rằng: “Tưởng chuyện chi mà lạ, điều ấy thấy cũng thường, mi tuổi xanh mà biết lo lường tr1i dường ấy chi nhường bạn tác. Việc phải quấy ở ta hành phạt, mi cứ lo dìu dắt trẻ thơ, trung tín kia hai chữ trọn thờ, đừng có dạ ước mơ điều quấy. Khá nghe lời ta dạy, đừng thấy vậy mà phiền, mối chỉ tơ dầu có bén duyên, cũng tại bởi hoàng thiên sở định.
Ta cũng muốn trọn bề tiết hạnh, ngặt cựu tình khó lánh cho xa, hoa xưa ong cũ hiệp hòa, xét lại chẳng qua duyên nợ. Trối thảy việc chung tình gặp gỡ, mi giữ phần ăn ở như thường, chớ tưởng người là kẻ bất lương, lòng sâu hiểm chẳng thương kẻ dưới.”
Thị Hoa rằng: “Cám ơn mợ có lòng hà hải, nhọc công sớm dạy tối khuyên, thưa mợ, bá nhựt tuần đã tới một bên, mợ chẳng tính rước thầy tụng cho hồn cậu siêu lên cõi Phật?”
“Ờ, ta cũng tính làm cho đúng bậc, nhưng mà nhắm xem nhà bẫn chật không ai, kẻ coi trong không kẻ coi ngoài, sợ miệng thế người hay dèm xiểm. Bởi vậy ta muốn làm tự tiện, nấu ít mâm cơm dọn cúng cũng xong, việc phải chăng đều ở trong lòng, chẳng lựa phô trương ra giữa thế.”
Hoa nghe nói sầu bi không xiết kể, nghĩ mà thương cậu Tư chết để của nhiều, chưa mấy ngày ơn nghĩa đã muốn tiêu, xét mấy nỗi chín chiều ruột thắt.
Hà Hương nói rồi liền trở lên nhà trên, còn thị Hoa thì lo sửa soạn bữa sớm.
Ngày tháng như thoi đưa, vợ chồng ở với nhau đặng hai năm, Ái Nhơn đà năm tuổi. Bữa nọ đang trưa, vợ chồng nằm nơi ván bàn luận việc nhà, Nghĩa Hữu ngó Ái Nhơn rồi chăm chỉ ngó con là thằng Thoàn, thầm nghĩ tới gia tài của cải, bèn thở ra, mà nói cùng Hà Hương rằng: “Ta nghĩ nẻo phú quới tợ môn tiền tuyết, cuộc ân tình như thảo thượng sương, vẫn xưa nhà của ta lớn đất rộng vườn, tiêu hủy mau dường nháy mắt.
Còn như vợ chồng mình, thuở mới về hiệp mặt, ai cũng tưởng cho cầm sắc bén duyên, có dè đâu con tạo đảo điên, khiến đến đỗi hiệp tan như buổi chợ. Nay may còn gặp gỡ, hết lo kẻ Sở người Tần, ham hố chi những của phù vân, xét cuộc thế xoay vần không mấy lát. Nên kiếm chốn ẩn thân nhàn lạc, bỏ những khi thiên các nhứt phang, của trời cho hưởng chữ thanh nhàn, giữ huê lợi mà ăn cũng đủ. Chẳng cần phải làm nên cự phú, biết là con cháu nhà có thủ bền chăng? Bấy lâu nay mình lỗi đạo hằng, ăn năn lại tu thân mới phải.
Tôi tính mua một vuông nhà nơi Long Hải, về đó ở ăn vui theo bãi theo cồn, trên dòm cây đá chập chồng, dưới ngó cá tôm lội lặn. Xa lánh miệng hùm nọc rắn, trốn mùi mướp đắng mạt cưa, mặt ai đua danh lợi sớm trưa, mình giữ phận muối dưa ngày tháng.”
Hà Hương rằng: “Bởi lòng chưa quyết đoán, nên thiếp chẳng nói ra, ý thiếp cũng muốn thiền thị lánh xa tìm chốn nham huyệt vào ra yên phận. Đem mình đi mai ẩn, vào hóc vắng ở an, đặng mà giải cho sạch nỗi oan, kẻo để vậy mắc đàng vay trả. Vậy thì chàng mau khá, liệu toan giá cả cho xong, miễn cho đặng toại lòng, chớ có nệ tốn công tốn của.’
Bàn luận xong xuôi, sáng bữa sau Nghĩa Hữu đi Long Hải, dịp may mua đặng một cái nhà lầu, và nhà và đất năm ngàn; mãi mại thuận tình, Nghĩa Hữu mới dẫn chủa bán về Chợ Lớn. Tới nhà thuật lại cho Hà Hương nghe, Hà Hương cũng đành, song bạc nhà thiếu. Nghĩa Hữu xúi bán nhà ở đường Gia Long, lấy bạc mua nhà Long hải, còn dư bao nhiêu để xây xài, chớ chẳng lẽ phố cho mướn cho tới tháng, góp tiền trước cho đặng.
Hà Hương nghe theo, bèn kêu người Bà-ba lại bán và nhà và đất một muôn hai, vì người Bà-ba nầy, từ ngày mẹ Ái Nghĩa mới mất, đã có hỏi này đôi ba phen mà không đặng. Đoạn Hà Hương và Nghĩa Hữu làm giấy đoạn mãi lấy bạc, chồng năm ngàn chuyên chở đồ đạc đem hết gia tiểu về Long Hải mà ở.
Tới nơi, Hà Hương thấy tòa lầu cao lịch lãm, phong cảnh nhắm rất xuê, tư bề rực rỡ cỏ huê, xem tợ sân trải gấm; trên bóng che rậm rậm, dưới sóng bủa ầm ầm, Hà Hương thấy vậy mừng thầm, tưởng chốn lục lâm toại chí.
Chẳng dè, về ở đó đặng đôi ba tháng, tuy Nghĩa Hữu tình ý chẳng sợ, song không hay khăng khít nhau như trước; thằng Thoàn đã trộng, Nghĩa Hữu sắm tên sắm ná, cha con dẫn nhau dạo rừng săn bắn tối ngày, khi thì săn đặng hươu nai, khi thì chồn thỏ.
Bữa kia hai cha con cũng đi săn, gặp lúc trưa trời nóng nực, bèn lên trên nổng cao, có bóng cây che mát mẻ, ngồi nghỉ mệt. Nghĩa Hữu ngó mặt Thoàn, sực nhớ Ái Nhơn, thầm xét việc gia tài của cải. Rằng: “Của tuy nhiều, song xét kỹ lại chẳng phải là của ta, quả là của cha Ái Nhơn để lại. Con nhà hai dòng, lúc vợ chồng ta mà trăm tuổi già, gia tài của cải nầy phải thuộc về Ái Nhơn, con ta có đâu mà chi độ.” Ta phải lo mưu chi kế chi ngày sau cho con ta khỏi chịu sự cơ hàn cực khổ, chớ chẳng lẽ no ấm thân nầy, chẳng biết lo phận con đói rách.
Nói trong bụng như vậy, bèn ngồi ngó thằng Thoàn giây lâu, thầm gẫm gặt đầu mà tiếp rằng: “Tục đời ví: Cây không trồng lòng không tiếc, con không đẻ dạ không thương, như thằng Ái nhơn nầy nếu để nó còn đây, thì sau khó cho con ta lắm, chi bằng: Ra tay giết nó, sau con mình hưởng trọn gia tài, vậy mới là mưu hay, vậy mới rằng kế quỉ.
Tính vậy thì được rồi mà biết làm sao giết nó cho được? Thị Hoa hết lòng cùng chủ, ngày đêm chẳng để rời, dường ấy lấy làm khó mà ra tay hại Ái Nhơn cho được. Vậy thì, nếu muốn toan mổ ruột, trước phải chặt tay chơn, nếu muốn giết Ái Nhơn, trước phải hại thị Hoa biệt tích.”
Xét cạn lẽ rồi Nghĩa Hữu thấm ý cười, đoạn biểu Thoàn trở về gia nội. Khi về tới nhà đúng buổi ăn, vợ chồng con cái ngồi đủ mặt; Nghĩa Hữu sanh ra một kế độc, quyết ý hại thị Hoa, bèn nói với Hà Hương rằng: “Bữa nay đi săn không có thịt, may lại gặp một cây, hỉnh như cây trái vải, trái chín đỏ tương tợ trái hồng tươi, hỏi cho biết trái chi, tiều phu nói nó là trái Sơn trà, ngọt ngon hơn hết.
Ta có ăn thử đôi trái, thật quả như lời, thấy trái lạ muốn đem về cho mẹ trẻ ăn chơi, mà ngặt không bưng khó xách. Ta tính mai biểu thị Hoa đem thúng theo, hái một thúng đem về cho mẹ trẻ ăn thử chơi cho biết.”
Hà Hương nghe nói trái lạ, chưa từng biết, lại ngon ngọt hơn hết, nên muốn ăn thử coi ra làm sao, bởi vậy khi Nghĩa Hữu nói vừa dứt lời, Hà Hương liền dặn thị Hoa: “mai cậu mi có đi, xách thúng theo mà hái.”
Sáng ngày Nghĩa Hữu thức dậy sớm, sửa soạn rồi kêu thị Hoa đi, lại không dẫn thằng Thoàn theo như mọi bữa. Vào rừng, nghĩa Hữu dẫn thị Hoa đi lộn rồng lộn rắn, hết đàng tắt tới ngả quanh, đi cho tới trưa, mà cũng chẳng thấy cây Sơn trà nào hết.
Cả hai đã đói lòng lại mệt, tạm nơi gốc cây ngồi nghỉ, Nghĩa Hữu liền bước vào bụi, bứt giây mây đem ra bỏ một đống, thị Hoa thấy vậy mới hỏi: “Bứt dây đó làm gì?”
Nghĩa Hữu đáp lại rằng: “Bứt dây trói mi đây, để cọp ăn cho rảnh. Bởi lòng mi trung chánh quyết lo gánh việc nhà, làm khó dễ cho ta, nên quyết không tha cho đó. Ta dầu không giết bỏ, bởi ta suy cho đó không cừu, cột mi đây khuyên chớ oán vưu, chớ trách lầm mưu kế độc.”
Thị Hoa lạy tam thiên và khóc, xin chủ gia nghĩ chút công lao, phận tôi đòi dâu dám ngăn rào, việc trái phải trước sau nào rõ. Xin chủ gia niệm tình đừng giết bỏ, tha cho tôi kiếm ngõ thoát thân, nếu mà chủ gia cột tôi ở chốn lục lâm, nào khác đem thân tớ gởi hàm ác thú.”
Nghĩa Hữu chẳng thèm nghe tới, ra tay bắt trói thị Hoa, xong rồi bỏ trở lại nhà, chưa rõ thị Hoa còn mất.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Nghĩa Hữu về tới, chạy vào nhà làm bộ mặt hơ hãi, thấy Hà Hương đang ngồi, xốc tới trước mặt mà nói cách thảm thiết rằng: “Không xong mẹ trẻ ôi! Thị Hoa bị hổ giảo rồi.”
Hà Hương nghe tin dữ vậy thất thanh, hồn bất phụ thể. Chập lâu tỉnh lại, đôi tròng lụy nhỏ chứa chan, mới hỏi duyên cớ làm sao mà ra đến đỗi. Nghĩa Hữu đáp rằng: “Kể từ giờ thị Hoa xách thúng theo ta vào rừng, chí dốc tìm trái Sơn trà mà hái về cho mẹ trẻ, chẳng dè đi quanh quanh lộn lộn cho tới trưa mà tìm không ra gốc. Xảy đâu đi tới một chỗ rậm rạp, gặp môt cây chín đỏ tươi, ta mới để cho thị Hoa đứng hái, còn ta thì xách ná rảo săn.
Chẳng dè đi chưa bao xa, bỗng nghe tiếng thị Hoa la oản. Ta lật đật trở lại chỗ thì thấy máu tuôn đọng vũng, còn thị Hoa đâu chẳng thấy hình, ta định quyết cho thị Hoa bị cọp vật rồi, ta mới xách ná chạy theo dấu máu. Ta liều thác mà cứu thị Hoa cho đặng, chẳng dè theo tới rừng cội bặt dấu máu rơi, ta xông vào tầm kiếm đã hết hơi, kiếm cho tới mặt trời gần chen lặn.
Kiếm thấy không đặng, sợ tối phải trở ra, ngùi ngùi thương phận thị Hoa, ở cùng chồng vợ ta hết dạ. Trời nỡ định mạng nàng bạc quá, sớm vong mà thây chả toàn thây, thảm thay, khi ra đi có tớ có thầy, lúc về lại còn đây mất đó.”
Hương nghe nói hai hàng lụy nhỏ, thương thị Hoa phận số rủi thay, “Trách trời xanh nỡ phụ người ngay, khiến đến đỗi thi hài rời rã. Ngay cùng chủ đinh ninh một dạ, hẳng lo sao nghĩa trả ơn đền, có dè đâu miệng cọp chẳng kiêng, làm cho tớ chịu riêng oan khúc!
Thời cũng tưởng cùng nhau hẩm hút, từ xanh mi chí lúc bạc đầu, căn bởi đâu số bởi đâu, khiến cho tớ lâm vào hổ huyệt. Kể từ đây tớ thầy đành cách biệt, thương để lòng dễ biết tính sao, cho hay câu thiên số nan đào, dẫu rằng bực trí tài khó lánh.”
Từ ngày thị Hoa mất rồi, HÀ Hương thương nhớ rầu rĩ không nguôi dạ; Nghĩa Hữu thấy vậy, đã chẳng khuyên giải thì chớ, lại bỏ đi tối ngày, không hay ấp yêu như trước. Đi thì chớ, về tới nhà làm mặt quỉ thần, quở trách rầy la, con mầy con tao nhiều tiếng.
Hà Hương thấy vậy lại càng buồn rầu hơn nữa, rầu đến đỗi ốm o gầy mòn, còn da bọc xương, phai hương lợt phấn. Nay đau mai mạnh, giã dượi hình dung, xưa kia mặt má hồng, nay mét xanh như tàu lá. Cơn buồn không nguôi dạ, nỗi thảm chải giải khuây, một mình vắng vẻ tối ngày, hột lụy không ngưng giọt.
Ôm trẻ dại ngồi mà than khóc, nghĩ tới chồng chua xót ruột gan, cũng vì mình ràng buộc dây oan, bây giờ có ăn năn cũng muộn.
Bốn năm tháng trường như vậy, Hà Hương xáng bịnh đau nặng, không ai coi sóc Ái nhơn, thằng Thoàn bỏ đi chơi một mình, còn Nghĩa Hữu thả lưu linh lưu địa. Hà Hương nằm chao vao, cơn tỉnh thì còn nhớ đến Ái Nhơn mà kêu con ôi con hỡi, đến lúc mê nào biết tới con.
Bởi vậy, bữa nọ Hà Hương nằm mê man, Ái Nhơn đứng bên giường, kéo áo mẹ khóc kêu inh ỏi. Kêu khóc lâu không đặng, buồn ý Ái Nhơn mới đem đồ ra sân lần lục soạn mà chơi, êm tai nghe tiếng sóng bủa ngoài khơi, mát mặt gió hiu hiu thổi tới. Ái Nhơn buồn ngủ, nằm dựa vách duỗi chưn, dè đâu tai nạn đến chừng, khiến Nghĩa Hữu đi rừng về tới.
Lên lầu thượng bước vào phòng nội, thấy Hà Hương mê muội không hay, bèn ưa chơn bước rảo ra ngoài, thấy trẻ dại nằm ngay ngon giấc. Nghĩa Hữu lòng bạc ác, mong giết thác Ái Nhơn, nghe vì: “Chốn không người ai rõ thấu nguồn cơn, mà chẳng tính oán hờn cho dứt. Con mình lớn lo chi nghèo cực, cả gia tài mặc sức ngỏa nguê, dợm ra tay chợt thấy hiền thê, Nguyệt Ba hiện hồn về trước mặt. Rằng: “Lang quân chớ làm điều bạc ác, nghịch lòng trời trời phạt chẳng tha, xưa vì Hà hương chàng giết thác Ái gia, trời đất quỉ thần đà căm giận. Dường ấy còn chưa hối hận, nay chàng toan giết tận họ hàng, thiếp về đây mách bảo cho chàng, mưu tính quấy giết oan trẻ dại. Dầu chàng có quyết lòng sát hại, cũng có người làm ngãi giải nguy, số Ái Nhơn vốn chưa tới kỳ, dầu cho đến lẽ gì cũng sống.” Bỗng đâu nàng khuất bóng, Hữu ngơ ngẩn như say, vậy mà còn chưa chịu nhơn tay, quyết bồng trẻ quăng ngay xuống biển.
Sợ người thấy cơ gian mà sanh chuyện, Hữu mới ngó theo mé biển coi chừng, sóng bủa gầm như có kẻ núp sau lưng, Nghĩa Hữu sợ tay chưn run bẩy bẩy. Xảy nghe có tiếng đâu xúi quấy: “Giết nó đi không ai thấy mà lo, hễ cho con ruột ấm no, trước phải hại thân con ghẻ.”
Nghĩa Hữu nghe xúi như vậy lại càng nông chí, xốc tới bồng Ái nhơn gởi cho con sóng lượng. Tội nghiệp Ái Nhơn còn đang mê giấc, chừng giựt mình nước đã ngập đầu, dẫu Phật trời thấy vậy cũng thảm sầu, người trần thế há chẳng đau lòng dạ.
Nghĩa Hữu hại Ái Nhơn rồi, giựt mình, muốn kiếm ngõ mà đi, song nghĩ lại nói trong bụng rằng: “Nếu mình bỏ mà đi, chi cho khỏi mẹ nó nghi mình giết. Chi bằng mình giả đò không biết, vào như thường, mẹ nó có khóc mình cũng làm bộ thở than, xét lại có ai rõ cơ quan, mà thổi lông tìm vít.” Nói rồi liền vào phòng, bước lại bên giường, vấn an Hà thị.
Nói về thị Hoa bị Nghĩa Hữu trói bỏ nơi rừng cội, la khóc kêu trời, la đã hết hơi mà không ai tiếp cứu. Bóng trời đà hầu khuất, nghe thú rừng trổi tiếng kêu vang, thị Hoa lòng dạ xốn xang, mắt đôi hàng đượm giọt.
Thị Hoa than rằng: “Miệng hùm dẫu gởi thây nào tiếc, thương phận Ái Nhơn chưa biết dữ lành, nhớ những khi chủ mới ngặt mình, kêu ta tới tỏ tình ký thác. Ta cũng tưởng sống thì gởi nạt, đền ơn người cho tạc lòng trung, có dè đâu mạng vắn số cùng, làm sao giữ thỉ chung cho đặng. Nghĩ mấy nỗi lòng càng cay đắng, ngó trời xanh than vắn thở dài, trời cao sao nỡ phụ người ngay, khiến đến đỗi lầm tay quân dữ.”
Than vừa dứt lời, bỗng nghe có tiếng chơn bước trên lá cây nghe ào ào, thị Hoa ngỡ là thú, nên sợ đứng ôm gốc cây làm thinh lẳng lặng, chẳng dè giây lâu lại nghe có tiếng người, thị Hoa mừng lòng, cả tiếng kêu xin người cứu nạn.
Kêu như vậy hồi lâu, xảy thấy một ông già mày râu như tuyết, đầu tóc tợ thúng bông, hình vóc cao lớn, bộ tịch mạnh mẽ, vác rìu đi xốc tới trước mặt thị Hoa mà hỏi rằng: “Chừng nầy ai làm gì mà còn ở đây, kêu la om đó vậy?”
Thị Hoa ngó thấy mừng lòng, bèn khóc và đáp rằng: “Lạy ông, tôi là người mắc nạn, bị người trói bỏ đây, xin ông cứu tôi ra cho khỏi chốn nầy, ơn ông tày sông biển.”
Ông già liền bước lại mở trói cho thị Hoa và hỏi: “Bởi tại sao mà sanh chuyện, cháu mau phân biện đuôi đầu, vậy chớ cháu ở chốn nào, mà dám ra vào rừng vắng. Đi sao không hiệp bạn, để người kết oán hại thầm, vậy cháu mau ra khỏi tòng lâm, nếu trễ bước tối tăm mang hại.”
“Thưa ông, cháu vốn ở nơi Long Hải, theo chủ vào đây hái Sơn Trà, vẫn cháu là tớ nhà, có điều chi mà oán, chẳng biết sao, chủ tôi lại quyết lòng hại mạng, nên mới gạt tôi tới đây đành đoạn trói tôi, đem thân tôi đến hang cọp mà làm mồi, nếu chẳng có ông cứu, lát nữa ắt không rồi tánh mạng. Ơn ông mang rất nặng, biết lấy chi đáp đặng nghĩa dày, vậy thì xin ông chớ nệ gái trai, cháu nguyện làm dưỡng nữ tháng ngày theo dõi.”
Tiều lão nghe qua liền nói, “ Thôi ơn nghĩa mà làm chi, cháu mau ra khỏi chốn nầy, về nhà cho gặp mặt tớ thầy, chẳng nên mển cỏ cây rừng bụi. Như phận ông khác, già bao quản cơm khô một túi, vai mang nước suối một bầu, ngơ tai nghe chuyện công hầu, kín miệng nói sang giàu trong thế.
Chuyên một nghiệp rừng mây củi quế, lâm lộc nầy giỏi nghệ xưa nay, hễ gặp ai lâm nạn mang tai, thì lão ra tay cứu giải. Lão đâu có chờ ai đáp ngãi, miễn giúp người khỏi hại thì thôi, bây giờ đây cũng đã tối rồi, cháu tua khá phản hồi gia nội.”
“Xin ông chớ vội, tạm đây cho tôi nói đôi điều, vả chủ tôi lòng đã chẳng yêu, đem tới chốn quạnh hiu mà bỏ. Nếu ông khiến cháu về đó, khác nào vào miệng rọ chờ ngày, lại thêm đàng sá hiểm gay, tăm tối khốn thay phận gái. Ông đã ra ơn cứu giải, cháu mới khỏi hại khỏi tai, nếu mà ông bỏ lại chốn nầy, thời cháu cũng chẳng toàn thây toàn mạng.Miệng hùm dầu khỏi máng, đói khác rồi đây cũng bỏ mình, vậy xin ông dĩ đước độ sinh, nguyền kết cỏ ngậm vành muôn thuở. Cho cháu theo về ở, tháng ngày hầu đỡ tay chưng, cha con vui thú núi rừng, dầu khó đói cũng chẳng sờn tấc dạ. Nếu mà ông khiến phân hai ngả, biết làm sao nghĩa trả ơn đền, thà hồn tôi xuống chốn cửu tuyền, hơn là sống ưu phiền ngày tháng.”
Tiều lão lòng không đành đoạn, bởi nghe nàng phân cạn sự tình, mới nói: “Vậy thì thôi khá theo ta về chốn gia đình, tối rồi, cọp nhiều lắm, lanh mắt giữ gìn cho lắm.”
Về tới thấy liều tranh một tấm, trước sau hoa rậm cỏ xanh, đôi ba cội liễu xũ nhành, năm bảy gốc tùng khoe bóng. Xem cũng dường tiên động, nhìn chẳng giống phàm trần, coi khác cảnh am vân, nhắm tợ miền tự tại; nghe suối chảy nước reo như đờn khảy, lóng chim kêu tiếng đỗ tợ ca ngâm, trong truông cây tượng hét gầm, ngoài cửa cọp beo giỡn chạy.
Cơm nước xong ngồi lại, thị Hoa mới hỏi tới sự nhà: “Chẳng hay dưỡng mẫu tại hà, chẳng thấy vào ra sau trước?”
Tiều rằng: ‘Phận ta đành vô phước, vợ nhà đà dõi bước diêm đài, không gái cũng không trai, một mình chịu tháng ngày hiu quạnh. Lộc rừng hai vai gánh, đem đổi bánh đổi tiền, không ưa cuộc trần duyên, yêu mến miền cực lạc.”
Thị Hoa nghe nói dường như một giấc chiêm bao thoát hoát, chẳng còn trông khoái lạc hồng tần, từ đây đã an thân, lo việc đền ơn đáp ngãi.
Ngày kia, tiều lão đang ngồi, vùng kêu thị Hoa mà bảo rằng: “Từ ngày con về ở cùng cha tới nay tính đã gần năm tháng, vậy thì nay con mau sắm sửa về thăm chủ đôi ngày, rồi con sẽ trở lên chẳng nên quên ơn nghĩa.”
Thị Hoa nghe nói mầng lòng, vì có ý đó đã lâu mà không dám nói. Nay nghe cha bảo, khoái chí vô cùng, quyết về tới gia trung, thăm việc kiết hung cho biết. Bấy lâu lòng thiết thiết, nhớ chủ biết bao là, lo cho Ái Nhơn kiết thiểu hung đa, vì cách bức mà ra phụ bạc.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện