-
-
Tuỳ chỉnh
Font chữ
Palatino
Times
Arial
Georgia
Bực thanh niên tân học đã từng xem những chuyện kỳ duyên, đã có đọc nhiều bài xảo ngộ, đến lúc tuổi được vài mươi rồi, thì phần nhiều thấy gái hay động tình, nằm đêm tư tưởng. Có người cũng vì ái tình tràn trề lai láng trong lòng không ngăn được nên đánh quần đánh áo rồi đi tìm hoa đợi nguyệt, sớm trong vườn mận, tối núp cội đào, làm cho có khi phải hại nghĩa dơ danh, lắm lúc phải đeo sầu nuốt thảm.
Lê Bác Ái cũng là một trai thanh niên ham đọc tiểu thuyết, nhứt là ưa đọc tiểu thuyết nói về ái tình, nhưng anh ta có một cái chủ ý khác hơn các bạn đồng song, là anh ta đọc tiểu thuyết thì lựa mấy quyển của đại gia văn chương đặt mà thôi, chớ không chịu xem những truyện gió trăng thô tục.
Có lẽ vì anh ta đọc tiểu thuyết nhiều, nên ái tình của anh ta lần lần dồn dập trong lòng, rồi có đêm nằm một mình vắng vẻ, nghe chim kêu trên cội, nghe dế gáy bên màn, thì bồi hồi dạ ngọc, tư tưởng bạn vàng. Mà có lẽ nhờ anh đọc tiểu thuyết thanh cao, nên ái tình của anh ta dồn dập mặc dầu, song chẳng hề tràn ra đến ngoài rồi đụng đâu vướng đó, như nhiều ái tình của bạn thanh niên khác. Ấy vậy Bác Ái chẳng phải là chẳng có ái tình, nhưng vì ái tình anh ta cao sâu nên về nhà ở đã mấy tháng rồi chưa ai thấy mở miệng ghẹo nguyệt trêu hoa một lần nào hết.
Chiều bữa đó, Bác Ái tình cờ gặp Xuân Hoa lại may mắn được chuyện vãn, đã xem thấy rõ ràng môi son má phấn, tướng yểu điệu, dạng ngồi đoan trang, mà lại còn được nghe tiếng nói thanh như hơi đờn, giọng cười êm như nước chảy, nhưng mà anh ta lần bước trở về nhà cũng không để ý đến, trông ra chẳng khác nào như đã gặp mấy cô bần hàn lam lụ ở quanh quất trong làng.
Chiều ăn cơm rồi anh ta cũng vào thơ phòng đọc sách. Anh ta đương đọc quyển tiểu thuyết của Honoré de Balzac đề tựa là Eugénie Grandet . Đêm ấy anh ta đọc tới đoạn chàng Charles với cô Eugénie dắt nhau ra sau vườn ngồi núp dưới nhánh cây mà hẹn hò vàng đá, thì anh ta trong lòng ngơ ngẩn rồi lại châu mày, mới xếp quyển tiểu thuyết để trên bàn, rồi nằm ngay ghế dài, mắt ngó ngọn đèn mà tư tưởng. Trong nhà ai nấy đều ngủ hết, anh ta nằm suy nghĩ một hồi lâu, nghe tứ bề vắng vẻ im lìm, mới thở dài một cái rồi ngồi dậy đi lại đứng dựa cửa sổ mà ngó ra ngoài vườn. Bóng trăng rọi mấy nhành cây chấp chóa, ngọn gió đưa mùi bông sứ thơm tho. Người đương bận vì tình, mà cảnh lại giục động tình, bởi vậy nên Bác Ái chẳng vui, lật đật khép cửa sổ rồi tắt đèn đi ngủ.
Nằm mắt nhắm trót một giờ mà không ngủ, ban đầu mơ màng thấy nàng Eugénie với chàng Charles đương kề vai dưới cội, thì thầm tâm sự với nhau, rồi nhớ đến cô Xuân Hoa gặp hồi chiều thì lại hồi hợp trong lòng, muốn bỏ qua để tưởng tới chuyện khác mà không bỏ qua được. Anh ta nhớ từ tướng ngồi, bộ đứng cho đến tiếng nói giọng cười, nhớ cô ngồi chỗ nào, nhớ cô hỏi làm sao, mình đáp lại làm sao, nhớ nước da cô trắng, gương mặt cô tròn, nhớ ngón tay cô dài, hàm răng cô khít. Bác Ái tưởng tượng những chuyện hồi chiều thì thấy cũng như đương có trước mặt, nhưng mà nhớ vậy, tưởng như vậy, chớ chẳng hề có ngụ đến cảnh hoa nguyệt chút nào. Lòng ngổn ngang trí lôn xộn, tưởng việc nầy nhớ chuyện nọ, đến 11 giờ khuya mòn mỏi rồi mới ngủ quên.
Rạng ngày sau Bác Ái thức dậy ăn cháo rồi bơi xuồng đi thăm ruộng như thường. Lên tới vàm xẻo Ông Thục anh ta ngó thấy chiếc cầu chỗ mình đứng chơi rồi gặp cô Xuân Hoa hồi chiều hôm qua, thì trong trí lại bắt gặp cô ta, nên tính bữa nào rảnh sẽ lên thăm mợ Hương sư chơi một lát. Gần tới vàm kinh Chà Và là chỗ đi vô ruộng, anh ta ngó tới trước, thấy nhà bà Hương sư Thể ló nóc đỏ lòm. Anh ta muốn bơi thẳng lên đó, rồi lại nghĩ thầm rằng: “Bây giờ nước ngược bơi lên đó thêm mệt, chi bằng mình vô thăm ruộng rồi bận về nước xuôi mình sẽ lên chơi chẳng muộn gì”. Nghĩ như vậy rồi rẽ vô kinh Chà Và.
Đến trưa Bác Ái trở về, ra tới vàm kinh anh ta cũng muốn lên thăm bà Hương sư nữa, song mới vừa day xuồng bơi lên được vài dầm rồi anh ta lại nghĩ thầm rằng: “Mình bận áo quần không được sạch, nếu lên thăm mợ mà y phục như vầy thì khó coi, thôi để bữa khác sẽ thăm không gấp gì lắm”. Nghĩ thầm như vậy nên quày xuồng mà về.
Chiều lại Bác Ái cũng tắm gội rồi thay quần áo sạch sẻ đi chơi. Khi trong thơ phòng lấy nón bước ra, anh ta tính bữa nay anh đi trở xuống phía dưới, mà chừng ra đến ngõ rồi lại đổi ý nên lần bước đi lên phía trên như hôm qua. Lên tới cầu xẻo Ông Thục anh ta đứng lặng thinh ngó vô đồng, nhưng nếu có ai cố ý coi thì một lát anh ta day mặt ngó lên phía trên một cái, dường như trông chừng coi có ai trên đó đi xuống hay không vậy. Anh ta đứng một hồi rồi thủng thẳng đi lần lên nhà, tới ngay vàm kinh Chà Và thì đã thấy nhà bà Hương sư Thể. Anh ta móc đồng hồ vàng trong túi ra coi, thì mới bốn giờ rưỡi, nên men men đi lên hoài, tính thừa dịp nầy lên thăm mợ Hương sư chơi coi nhà cửa dọn dẹp thế nào mà cha mẹ mình thường hay ngợi khen mợ là người vén khéo.
Bác Ái vừa bước vô sân, ba con chó ở trong nhà chạy ra sủa vang rân. Anh ta đứng lại. Xuân Hoa bước ra cửa la chó rồi chào hỏi và mời vô nhà. Xuân Hoa mời Bác Ái ngồi rồi nói rằng: “Anh Tư ngồi chơi, má tôi mới đi ra sau vườn. Để tôi biểu ra mời má tôi vô”.
Xuân Hoa vừa nói vừa cười mặt vui vẻ, bộ gọn gàng lắm. Cô ta kêu đứa ở biểu ra sau vườn mời mẹ, rồi day lại hầu chuyện với Bác Ái, chẳng có một chút chi bợ ngợ hết. Bác Ái ngồi ngó cùng trong nhà coi dọn dẹp thế nào, mà ngó quanh ngó quất rồi thì cũng ngó lại Xuân Hoa hoài. Bà Hương sư bước vô mừng rỡ hỏi thăm lăng xăng rồi biểu Xuân Hoa coi hái quít, hái mận đem cho Bác Ái ăn chơi. Xuân Hoa đi xuống nhà sau một hồi rồi bưng lên một dĩa quít với một dĩa mận để trên bàn, ngay trước mặt Bác Ái vừa cười vừa nói rằng: “Ở đồng ở ruộng chẳng có chi quí, vậy mời anh ăn thử ít trái cây trồng trong vườn”.
Bà Hương sư lại tiếp mà nói rằng:
- Ăn chơi cháu. Mận của mợ trồng tuy coi không được tốt trái song nước nhiều là lại ngọt hơn mận của người ta lắm.
Lúc Xuân Hoa bưng trái cây lên, Bác Ái ngồi mắt thì ngó dĩa mận với dĩa quít mà lại thấy luôn hai bàn tay của Xuân Hoa trắng trong, hai cườm tay tròn vình. Anh ta ăn một trái quít và một trái mận rồi kiếu ra về.
Bà Hương sư nói rằng:
- Cháu từ nhỏ tới lớn mắc đi học nên ở theo chợ búa quen rồi, bây giờ ở đồng có lẽ buồn lắm há? Cháu có buồn thì đi lên trên nầy mà chơi. Mợ vô tình quá, cháu về mấy tháng nay rồi mà mợ chưa đi thăm được.
Bác Ái ra ngoài đường rồi ngó ngoái lộn vô nhà thấy Xuân Hoa còn đứng tại cửa ngó theo.
Đêm ấy Bác Ái nằm thấy Xuân Hoa đứng trước mặt, nghe Xuân Hoa nói bên tai hoài, đọc sách mà không hiểu nghĩa, nhắm mắt mà không ngủ được.
Anh ta nhớ lời bà Hương sư mời ăn mận nói rằng: “Mận của bà tuy coi không được tốt trái song nước nhiều là lại ngọt hơn mận của người ta” thì anh ta nghi cho bà Hương sư có ý muốn nói xa nói gần mà khoe đức hạnh của con, rồi anh ta lại nhớ khi từ giã ra về, Xuân Hoa đứng tại cửa ngó theo thì anh ta lại nghi Xuân Hoa có ý gì với mình đây chớ chẳng không. Tuy Bác Ái nhớ mấy việc ấy thì mừng thầm, nhưng mà anh ta nghi mà thôi, chớ chưa dám chắc bà Hương sư đã sẵn lòng mà Xuân Hoa đã chú ý.
Ông Hội Đồng còn một sở ruộng nữa ở trên làng Kiến An, nếu đi lên đó thì phải đi ngang nhà Xuân Hoa. Sáng bữa sau Bác Ái không đi thăm ruộng trong kinh Chà Và nữa, lại bơi xuồng đi, mà đi lên ruộng Kiến An hoài, không vào kinh Chà Và nữa. Hễ đi ngang qua nhà bà Hương sư thì anh ta liếc mắt dòm chừng coi có Xuân Hoa đứng trước cửa hay không. Ngày nào ngó thấy Xuân Hoa thì vui vẻ vô cùng, còn ngày nào không ngó thấy thì về nhà ăn không biết ngon, nằm không ngủ được. Có bữa gặp Xuân Hoa ngồi giặt áo, hoặc rửa rau dựa mé sông thì anh ta lật đật chào hỏi, rồi về nhà ngủ không được, cứ nằm trăn trở thao thức hoài. Nếu không thấy mặt luôn hai bữa thì chiều anh ta đi chơi ắt đi lên thẳng nhà mà thăm.
Người trong nhà nếu ai có ý cũng đều thấy Bác Ái quyến luyến Xuân Hoa. Đã vậy mà anh ta thường khen ngợi bà Hương sư, lại hễ nói chuyện gì với ai anh ta cũng kiếm thế mà xen bà Hương sư Thể vô hết thảy.
Có lẽ bà Hội đồng hiểu ý con và muốn thử coi nó có tình ý gì với Xuân Hoa hay không, nên đêm nọ bà đương ngồi nói chuyện với chồng con, bà mới nói rằng:
- Mợ Hương sư có một đứa con gái đích đáng quá. Thằng chồng nào gặp vợ như con Xuân Hoa đó thiệt là có phước lắm.
Bà liếc mắt dòm coi thì thấy Bác Ái mắc cở, cúi mặt xuống ghế không nói chi hết, mà bộ suy nghĩ lắm.
Bà liền nói tiếp rằng:
- À, con coi Xuân Hoa vừa ý con hay không? Nếu con chịu má đi nói cho.
Bà vừa nói cừa cười. Bác Ái đứng dậy đi vô buồng, vừa đi vừa nói rằng:
- Thủng thẳng vậy chớ. Để con dọ coi ý tứ nó thế nào đã.
Cách ít ngày Bác Ái đi chơi chiều, lên tới ngang vườn chuối cai tuần Bộn, may gặp Xuân Hoa ở trên đi xuống. Bác Ái vừa ngó thấy thì trong lòng hồi hộp, ngực nhảy thình thịch, tính thừa chỗ vắng vẻ nầy tỏ tình dan díu của mình rồi dọ thử coi cô nọ có ý gì với mình chăng. Tính như vậy mà chừng Xuân Hoa đi tới thì nghẹn ngào không nói được.
Xuân Hoa thấy Bác Ái thì chúm chím cười và hỏi rằng:
- Thưa anh Tư đi chơi. Anh đi chơi xa dữ há.
Bác Ái bợ ngợ, hỏi cô nọ đi đâu rồi để cô đi tuốt không tỏ tình dọ ý chi hết.
Xuân Hoa đi khỏi rồi, Bác Ái đứng ngó theo tức giận thầm trong bụng, tức là vì mình chẳng phải đứa quê mùa dốt nát mà sao gặp một cô gái như vậy lại hồi hộp nói không ra lời, còn giận là vì có cơ hội may mắn đặng cho mình tỏ tình riêng của mình với cô ta, nếu mình để cho cô ta đi tuốt rồi thì biết ngày nào mới có dịp tốt như vầy nữa. Anh ta đứng ấm ức một hồi rồi nghĩ rằng cô nầy cổ đi xuống chắc sau một lát nữa cổ cũng trở về, vậy thì mình thơ thẩn ở đây mà chờ, đặng bận về mình nói. Anh ta đứng chấp tay sau đít ngó mông ra sông, sắp ý lựa lời đặng chờ Xuân Hoa trở lên, anh ta vừa ngó thấy thì trong lòng lại bối rối nữa, quên hết mấy lời đã đã lựa, mấy ý đã tính, nên chừng cô ta đi tới anh ta chẳng nói chi được, duy nói có mấy tiếng nầy mà thôi: “Cô Hai, cô đứng lại tôi nói chuyện nầy một chút”.
Xuân Hoa đứng lại rồi cười hỏi rằng:
- Anh nói chuyện chi?
Bác Ái nói:
- Chẳng dấu chi cô, tôi thấy cô tôi thương quá.
Xuân Hoa nói:
- Ê! Anh quỉ nà.
Nói rồi Xuân Hoa bỏ đi, cách ít bước lại ngó lại và cười và nói rằng:
- Bữa nào có rảnh lên nhà chơi nghe hôn anh Tư.
Bác Ái đứng trân trân, nửa hổ thẹn nửa thảm sầu, nên lần bước trở về ăn cơm rồi rút vô thơ phòng nằm dàu dàu, không đọc sách mà cũng không nói chuyện với ai hết. Mấy bữa sau anh ta không đi thăm ruộng nữa, mà cũng không đi chơi, cứ nằm trong phòng, tay cầm sách hoặc nhựt trình, mà trí thì suy nghĩ mấy lời của Xuân Hoa hoài chớ không đọc được gì hết. Cha mẹ thấy cử chỉ khác thường, sợ con đau nên hỏi thăm, thì Bác Ái dối lời rằng nhức đầu nên đi ruộng không được.
Ngày Bác Ái mới gặp Xuân Hoa một lần đầu rồi về nằm đêm nhớ tới cô ta, thì Bác Ái không dè cuộc hội ngộ thình lình như vậy mà kết thành mối ái tình trong lòng mình được. Ngày qua đêm lại lần lần anh ta cứ nhớ Xuân Hoa hoài, nhứt là ban đêm vắng vẻ, nằm trong phòng một bóng đèn, thì lòng lại thường hoài vọng trí lại hay tương tư, rồi lúc đi ruộng hoặc đi chơi thì ý lại muốn ghé nhà bà Hương sư đặng thấy mặt Xuân Hoa nữa, chừng ấy anh ta mới biết cô Xuân Hoa đã khêu lửa lòng của anh ta rồi. Mà chừng anh ta biết như vậy thì lại càng xốn xang thao thức chịu không được, ngày như đêm, trong trí cứ tưởng nhớ tới Xuân Hoa, cứ trông mong cho gặp Xuân Hoa, có khi lại ước phải chi ai xuôi khiến cho gặp Xuân Hoa vào chốn phòng riêng của mình rồi giao mặt kề vai mà dọ thử tình nhau cũng như chàng Charles với Eugénie trong quyển tiểu thuyết Eugénie Grandet của Honoré de Balzac vậy. Có đêm anh ta suy nghĩ rồi tính tỏ thiệt niềm riêng với cha mẹ đặng xin cha mẹ cậy mai đến nói mà cưới Xuân Hoa. Nhưng mà tính như vậy rồi anh ta lại nghĩ mình thương Xuân Hoa không biết cô ta có tình gì hay không, nên dục dặc không dám hở môi, muốn để dọ coi như ý hiệp tâm đầu rồi sẽ tỏ bày với cha mẹ.
Buổi chiều nọ Bác Ái gặp Xuân Hoa ngang vườn chuối cai tuần Bổn, phân tỏ mấy lời, đó là có ý muốn ướm thử lòng Xuân Hoa, chẳng dè Xuân Hoa đối đáp rất vô tình, làm cho anh về thối chí, tưởng cô ta không có tình chi với mình hết. Anh ta quyết lắp vùi tình ái cho thảnh thơi mà chờ khách đồng tâm, nào dè làm quên chừng nào lại càng nhớ thêm chừng ấy, lòng bắt buồn, trí bắt lảng, ngẩn ngơ dã dượi như người thất chí, như kẻ không hồn. Anh ta tính giận Xuân Hoa mà giận không đành, rồi tính thương Xuân Hoa mà thương không đặng. Nỗi niềm đến thế anh ta mới biết dây ái tình đã buộc anh ta vào cô Xuân Hoa chặt rồi, chắc là khó bứt dứt cho được. Anh ta nghĩ như vậy mới tính lập thế khác dọ ý Xuân Hoa nữa. Anh ta nghĩ Xuân Hoa tuổi còn nhỏ mà lại tánh quê mùa, chắc là tại mắc cở nên không chịu tỏ tình dan díu. Vậy thì mình phải giả chước đi xa không ở nhà nữa coi Xuân Hoa hay việc như vậy có tỏ sắc buồn hay không. Nếu cô nghe mình đi mà buồn thì lòng đã trìu mến mình rồi, còn như nghe mà không buồn thì chẳng có ý chi với mình hết.
Bữa nọ Bác Ái gặp Xuân Hoa liền nói rằng:
- Em Hai, em ở nhà mạnh giỏi nghe hôn.
Xuân Hoa mới nghe thì chưng hửng nên hỏi rằng:
- Anh đi đâu?
Bác Ái làm mặt buồn hết sức mà nói rằng:
- Qua đi Bắc Kỳ!
Xuân Hoa ngó ngay mà hỏi nữa rằng:
- Anh đi chi vậy?
Bác Ái nói:
- Ở nhà buồn quá chịu không được, nên tính đi học thêm ít năm.
Xuân Hoa vừa cười vừa nói:
- Từ nhỏ tới lớn anh ở chợ quen rồi nên về ở đồng anh chịu không được. Thôi anh đi mạnh giỏi nhé.
Xuân Hoa nói mấy lời rồi kiếu mà đi, chẳng tỏ ý dan díu chi hết.
Bác Ái về nhà nằm nghĩ thầm, chắc là tại Xuân Hoa còn nhỏ nên chưa kết được ái tình, bởi vậy mới xin cha mẹ cho đi Bắc Kỳ chơi ít tháng đặng dọ coi mấy trường Cao Đẳng ngoài Hà Nội dạy dỗ như thế nào, rồi lựa coi nên học trường nào đặng qua năm tới sẽ xin học. Cha mẹ tin như lời, nên cũng vui lòng để cho Bác Ái đi chơi.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bác Ái ra đi tính thầm rằng mình ở nhà, Xuân Hoa thấy mặt hoài nên khó mà chấp mối ái tình cho được, có lẽ cách mặt một ít lâu cô nhớ tới mình rồi lần lần mới biết thương. Chừng mình về chắc cô đã đổi ý khác hơn xưa, mà ví dầu cô còn hẫng hờ như cũ, thì mình sẽ giả chước đi cưới vợ mà thử bụng cô nữa.
Bác Ái tính như vậy tưởng là kế hay, lại chắc hễ trở về thì cô mừng lắm, nào dè ở chơi Bắc Kỳ hai ba tháng, chừng trở về tới nhà thì nghe nói Xuân Hoa chồng đã đi lễ hỏi rồi, còn có 20 ngày nữa thì tới lễ cưới. Bác Ái hay tin như vậy, thì khóc cũng lỡ khóc, mà cười cũng lỡ cười, ngơ ngẩn bàng hoàng chẳng khác nào như nghe sấm nổ bên tai, thấy sóng dồi trước mặt. Anh ta hỏi sấp nhỏ ở trong nhà coi ai tính cưới Xuân Hoa, thì chúng nói chàng rễ tên là Phạm Quảng Giao, con của bà Hương chủ Hiệp ở bên làng Bình Đức. Bác Ái nghe tên Quảng Giao lại càng tức giận nhiều hơn nữa, tức giận là vì mình thương Xuân Hoa mà sao Xuân Hoa lại chẳng chút đoái hoài, còn giận là giận Quảng Giao chẳng nghĩ tình đồng song, thiếu gì con gái sao lại nỡ đoạt chỗ của mình trìu mến.
Bác Ái vào phòng nằm dàu dàu. Cha mẹ thấy con đi chơi mấy tháng, mà sao về lại có sắc não sầu, thì lo sợ nên theo hỏi thăm. Anh ta dối rằng đi đường xa mệt mỏi, cha mẹ tưởng thiệt, nên để cho anh an nghỉ không hỏi han đến nữa.
Đêm ấy anh ta ngồi suy nghĩ, thì thức thiệt là đáng tức, song giận nghĩ không nhằm, vì tại mình muốn dọ cho chắc Xuân Hoa có ý hiệp tâm đầu với mình không nên mới hóa ra cuộc dở dang, lỗi ấy tại nơi mình, chớ Quảng Giao nào có rõ tâm sự của mình đâu mà mình trách. Anh ta nghĩ như vậy rồi lại nghĩ mình ở gần Xuân Hoa đã quen biết nhau, lại tỏ tình cùng với Xuân Hoa nữa, mà Xuân Hoa không tỏ dấu chi yêu mến mình. Còn Quảng Giao ở xa, thuở nay không nghe nói quen biết Xuân Hoa có lý nào lại biết Xuân Hoa thương mà đi nói. Hay là gặp lúc mình vắng mặt, hai đàng ở nhà qua lại gặp nhau, người uốn lưỡi, kẻ đưa tình, trộm ước thầm yêu rồi mới tính cuộc trăm năm tơ tóc.
Bác Ái nghĩ đến đó thì trong lòng ấm ức lấy làm khó chịu lắm. Tuy đã biết Quảng Giao không có lỗi gì, nhưng mà trong trí cứ giận thầm hoài, cứ tìm kiếm coi tại cớ nào mà trai gái biết nhau rồi cậy mai đến nói. Anh ta suy xét hết sức, mà tìm không ra mối, đến canh khuya mới tính nhắm mắt ngủ, đặng quên phứt nỗi sầu, mà hễ nhắm mắt thì thấy Xuân Hoa với Quảng Giao ở chung với nhau một nhà, ăn ngồi cười nói với nhau anh ta lại càng thêm áo não.
Sáng bữa sau Bác Ái thức dậy rửa mặt chải đầu rồi lại đứng dựa cửa sổ, miệng ngậm điếu thuốc, mắt ngó ra ngoài vườn, thấy một cặp chim trao trảo đương đứng trên nhành rỉa lông và lăng líu với nhau, anh ta nhớ đến danh phận dở dang thì lầy làm phiền muộn hết sức. Anh ta trở lại bàn ngồi lấy nhựt trình coi mà không thấy chữ, cứ thấy Quảng Giao với Xuân Hoa hoài. Anh ta giận mới lại ghế nằm, trong trí nghĩ thầm rằng mình thương yêu Xuân Hoa, muốn vầy duyên cang lệ, kết tóc trăm năm chẳng qua là muốn cho cô ta được trọn đời hưởng cảnh an nhàn, nếm mùi hạnh phúc. Nay ông tơ bà nguyệt lại xe dây chỗ khác, ấy là tại mình chẳng có duyên nợ với cô ta, vậy mình cũng chẳng nên phiền Quảng Giao tuy giàu chẳng bằng mình nhưng anh ta là trai học giỏi, lại tánh nết ôn hòa, nếu Xuân Hoa kết duyên thì trọn dời chắc cũng không cực khổ, thôi mình cũng nên mừng dùm cho cô ta. Mà hai người tính kết tóc xe tơ đây, vậy chớ đã biết ý nhau trước rồi hay chưa, đã có thương nhau không? Bác Ái hỏi thầm như vậy rồi nhớ tới những lời đàm luận với nhau lúc còn ở tại trường thì anh ta nghi Quảng Giao đi coi mắt, ngó thấy thấp thố rồi cậy mai đi nói bướng, cũng như trai trong xứ xưa nay đi cưới vợ đó vậy, chớ không bao giờ dọ ý dọ tình. Ví như hai đàng về ở với nhau may trên thuận dưới hòa, thì chẳng nói chi, còn như kẻ trâu trắng trâu đen, thì phận của Xuân Hoa là thân phận đáng kính đáng yêu, mới ra thế nào?
Bác Ái nghĩ tới đó, xốn xang trong lòng chịu không được, nên ăn cơm sớm mai rồi dạy bọn dọn ghe đặng đi chợ Long Xuyên, tính qua viếng Quảng Giao hỏi coi hai đàng đã biết nhau ý hiệp tâm đầu hay không mà dám tính chuyện trăm năm tơ tóc. Ghe vừa ghé lại bến, Quảng Giao ngồi trong dòm ra thấy lật đật chạy ra mừng rỡ rồi mời vào nhà. Quảng Giao hối bạn[1] nấu nước trà đãi bạn cố giao. Bác Ái ngó quanh quất rồi hỏi:
- Bác đi chơi đâu vắng?
- Ờ, có chị hai tôi ở Bình Thủy về, nên má tôi dắt chỉ qua bên chợ đặng lựa mua áo mua vàng. Tôi nghe nói anh đi chơi ngoài Hà Nội mấy tháng nay, anh về bao giờ vậy?
- Tôi mới về hôm qua.
- Mấy tháng nay tôi đi qua bên bà gia tôi hoài, lần đầu tôi ghé thăm anh, thì bác nói anh đi khỏi, rồi mấy lần sau lần nào tôi cũng hỏi thăm thì họ nói anh chưa về, nên tôi không ghé nữa. May quá nay anh về rồi, vậy thì tôi xin mời trước anh bữa mùng mười tháng sau anh làm ơn đi đám cưới dùm tôi nhé.
Bác Ái ngồi thở dài, ngó ra sân một hồi, coi bộ không được vui, rồi day vô hỏi rằng:
- Anh nói bữa nào đám cưới?
- Mùng mười tháng sau.
- Được. Tôi về tới nhà nghe nói anh đi hỏi con mợ Hương sư, đã định ngày cưới rồi, thì tôi mừng dùm cho anh quá, nên lật đật qua đây mà khánh hạ anh. Nầy, mà ai điềm chỉ cho anh biết anh đi nói đó vậy?
- Má tôi có bà con xa xa với ông chủ Tân ở bển. Cách mấy tháng trước ổng đi hầu việc quan, có ghé thăm má tôi. Ổng thấy tôi ổng mới hỏi thăm tôi đã hứa duyên nơi nào hay chưa. Má tôi nói có ý muốn nói vợ cho tôi, song chưa thấy nơi nào vừa ý nên chưa tính. Ổng mới điềm chỉ bên đó rồi hẹn ngày cho tôi với má tôi qua coi. Má tôi coi rồi thì vừa lòng lắm, nên cậy ông chủ làm mai luôn cho dễ. Chẳng dấu chi anh, thiệt tôi cũng chưa muốn cưới vợ ngặt vì tôi thấy má tôi đã già yếu rồi mà còn phải xem xét mọi việc trong nhà, thì tôi thương quá, mà ý má tôi lại quyết định đôi bạn cho tôi sớm, nên tôi không dám cãi. Theo ý tôi thì tôi tính việc làm ăn xong rồi tôi sẽ cưới, mà má tôi không chịu, nói năm tới không hạp tuổi của tôi sao đó không biết, nên định cưới trong năm nay cho rồi.
Bác Ái nghe nói dứt lời, ngó Quảng Giao rồi chúm chím cười đáp rằng:
- Té ra anh đi nói vợ cũng như họ.
- Như họ là sao?
- Nghĩa là nghe điềm chỉ rồi tới coi, rồi cậy mai đi nói cưới nhầu, chớ anh không biết anh có thương đàng gái hay không, mà anh cũng không hiểu đàng gái có thương anh hay không.
- Ối! Thuở nay người ta làm sao, mình cứ làm như vậy, biết sao là không thương. Anh cứ nói theo phong tục bên Tây hoài! Mình là Việt Nam cứ làm theo Việt Nam, miễn là xong thì thôi.
- Anh nói kỳ quá! Việc vợ chồng là việc trọng, anh không dò trong lóng đục, anh cưới liều như vậy thoảng như về ở với nhau chị vợ chỉ không có chút lòng nào thương anh, thì anh vui sao được còn như anh không thương chỉ anh hất hủi chỉ, thì cũng là tội nghiệp cho thân phận đàn bà lắm chớ.
- Hại gì mà sợ! Vợ chồng thương nhau thủng thẳng một ngày một thương chớ. Còn việc nên hư là tại ý trời, mình biết đâu mà kén chọn lọc lừa cho mệt.
Bác Ái nói chuyện với Quảng Giao một hồi, biết ý Quảng Giao đã cố giữ theo phong tục xưa, cưới vợ không cần phải thương trước, nếu lấy ý mình ra cãi thì mích lòng chớ không ích gì, nên uống nước rồi liền từ giã ra về. Anh ta xuống ghe nằm gác tay qua trán buồn bực vô cùng, nhớ tới nét mặt, dáng đi, giọng cười, tiếng nói của Xuân Hoa thì coi trong thế gian nầy chẳng có ai bì kịp. Thiệt anh ta chẳng dám làm trở ngại việc hôn nhơn của bạn, nhưng anh ta thầm lo, không biết vợ chồng gặp nhau lạt lẽo như vầy, ngày sau Xuân Hoa có được thong thả tấm thân hay không.
Mỗi buổi chiều nào Bác Ái cũng đi dọc theo bờ sông chơi như trước. Bữa nào lên tới đầu cầu hay là đi ngang qua vườn chuối cai tuần Bộn là mấy chỗ gặp Xuân Hoa, anh ta ngẩn ngơ buồn bực, ban đầu vái thầm cho gặp Xuân Hoa, rồi lại giựt mình, sợ rủi gặp mặt nhau chẳng biết lấy lời gì mà nói, nên lật đật trở về nhà.
Đến ngày Quảng Giao cưới vợ, Bác Ái nhớ lời hứa nên cũng qua đi họ dùm. Họ đàng trai qua nhà bà Hương sư Thể ăn uống xong rồi mới sửa soạn rước dâu về đặng làm lễ hiệp cẩn. Bác Ái ngồi dựa ghế tại cửa, dòm thấy chàng rể mặc áo rộng xanh đứng dựa bàn thờ, còn nàng dâu ở trong đi ra, rồi hai người kề vai nhau mà bái mấy bàn thờ, chàng rể nét mặt hân hoan, nàng dâu miệng cười chúm chím, hai người có vẻ vừa lòng đắc ý lắm, làm cho anh ta thất vọng lại thêm chán ngán tình đời.
Về Bình Đức làm lễ hiệp cẩn xong, nàng dâu thay đổi y xiêm ra coi đãi ăn thì bộ tịch gọn gàng, đứng đi nhậm lẹ. Bác Ái dòm thấy lắc đầu nói thầm trong trí rằng: “Cô nầy chắc đã yêu anh Quảng Giao lắm nên về nhà chồng mới vui vẻ như vậy. Thôi được như vậy cũng may cho hai đàng, làm trai được vợ như Xuân Hoa thì phỉ nguyện rồi, mà làm gái có chồng như Quảng Giao cũng là đại hạnh. Mình nên mừng dùm cho hai đàng là người mình yêu mến bấy nay”.
Tuy Bác Ái nói như vậy, mà đi đám cưới rồi về nhà tâm thần dã dượi, lững đững lờ đờ, biếng nói, biếng cười, ăn không ngon nằm không ngủ, đọc sách cũng không được, trong trí cứ nhớ Xuân Hoa hoài.
Anh ta thầm nghĩ Xuân Hoa ngày nay đã có chồng rồi, mà chồng lại là bạn thiết của mình, nếu mình còn tơ tưởng tới nữa thì sự quấy của mình chẳng còn quấy nào hơn, bởi vậy cho nên anh ta tính làm lơ chừng nào lại càng tưởng tới chừng ấy. Anh ta tính đi nói vợ đặng gây mối tình mới thế cho mối tình xưa, nhưng đến coi con ai cũng chê, ngó thấy gái nào anh ta cũng không động tình, nên trót bốn năm tháng chưa ưng bụng chỗ nào, mà thân thể anh ta lại gầy mòn, tâm thần lại mờ mệt nữa. Cha mẹ không rõ tâm sự của con, thấy con khí sắc kém suy, lo tìm thuốc rước thầy, chớ chẳng tỏ một lời chi, hay là tính một chước chi giải cái tâm bịnh của con hết.
Bác Ái nhắm ở nhà vào ra gặp người, thấy cảnh, khó gỡ mối sầu riêng được, lại e một ngày kia gặp mặt Xuân Hoa thì càng khó chịu hơn nữa, nên xin với cha mẹ đi Hà Nội đặng vào trường Pháp luật và chánh trị mà học. Cha mẹ thấy con ở nhà buồn bực nên không nỡ ngăn trở nữa, tính để cho con đi hoặc muốn đổi phong thổ cho con nó có thỏa chí rồi vui vẻ như ngày xưa chăng. Bác Ái từ giã cha mẹ anh em rồi chở rương ra đi trong lòng tự quyết:
Giang hồ khuây lảng niềm tâm sự
Đèn sách vỡ tan giấc mộng tình
__
Chú thích:
1. Người giúp việc, người ở.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Quảng Giao cưới vợ xong rồi gởi đơn xin quan trên cấp bằng làm giáo sư dạy tại Long Xuyên cho gần gũi mẹ già đặng thần hôn trọn đạo. Quan trả lời rằng tại trường Long Xuyên không có khuyết giáo sư, nếu muốn cấp bằng thì phải chịu bổ đi dạy đỡ trên Sài Gòn, chừng nào ở Long Xuyên có khuyết thì sẽ đổi về. Quảng Giao tuy không muốn lìa mẹ già đi làm ăn xa, song nghĩ nhà mình không phải là nhà giàu, mình đã học thành công rồi mà chẳng lo làm ăn thì chắc chẳng khỏi thế tình dị nghị, nên bàn tính với vợ và thưa với mẹ rồi chịu đi, gởi vợ ở nhà thế cho mình phục sự mẹ già.
Quảng Giao đi dạy học, Xuân Hoa ở nhà làm dâu hàng ngày đều lo coi trong coi ngoài, vui vẻ luôn luôn. Tuy vậy bà chủ thấy con dâu còn nhỏ, để phân lìa nhau tội nghiệp cho trẻ thơ, nên Quảng Giao vừa đi dạy học được vài tháng thì bà gởi thơ biểu mướn phố dọn nhà đặng rước Xuân Hoa lên cho vợ chồng sum hiệp. Quảng Giao tiếp được thơ lấy làm áy náy lắm: tưởng vợ ở nhà sầu não nên mẹ mới tính cho theo hoặc là vợ cứng cổ cứng đầu nên mẹ mới giận lẫy khuyên như vậy. May lúc ấy có lễ được nghỉ ba ngày,Quảng Giao lật đật về nhà đặng hỏi lại coi vì sao mẹ lại biểu dọn phố.
Quảng Giao về nhà thấy vợ vui vẻ như thường, mà mẹ cũng thương yêu như cũ, chớ chẳng có chi lạ, mới năn nỉ xin để vợ nhà hủ hỉ với mẹ già. Bà chủ không chịu nói rằng: “Vợ chồng con còn nhỏ lắm, ở một đứa một nơi như vậy mẹ không yên lòng. Vậy con phải nghe lời mẹ mướn phố rồi đem vợ con theo đặng nó nấu cơm nấu nước và may áo may quần cho con, phận mẹ ở nhà đã có tôi tớ đủ dùng, con chẳng nên lo làm chi cho cực”. Quảng Giao không dám cãi lời mẹ, song cũng chưa nhứt định. Vợ chồng dắt nhau qua Long Kiến thăm bà Hương sư, thuật chuyện mẹ biểu dọn nhà cho bà nghe, thì bà cũng vui lòng, lại mở tủ lấy 200 đồng bạc đưa cho con gái biểu nó về đưa lại cho chồng đặng lên sắm đồ đạc dọn nhà cho tử tế.
Quảng Giao thấy hai mẹ quyết ý cả hai, nên cực chẳng đã phải chìu lòng, trở lên Sài Gòn kiếm mướn được một căn phố ở đường Hàng Sao, có nước có đèn, lại cao ráo sạch sẽ nữa. Anh ta mua bàn ghế, sắm tủ giường xong rồi mới gởi thơ về cho hai mẹ hay. Bà sui trai được thơ liền ngồi ghe qua nhà bà sui gái, rồi hẹn ngày hiệp nhau đưa Xuân Hoa lên Sài Gòn. Xuân Hoa có gởi thơ cho chồng hay trước, nên ba người vừa xuống xe lửa thì đã có Quảng Giao chực trước.
Hai bà sui thấy nhà cửa dọn tử tế thì trong bụng mừng thầm, ở chơi ít bữa rồi dắt nhau về xứ, để lại cho vợ chồng Quảng Giao một đứa đầy tớ tên là thằng Tự, đặng phục sự trong nhà. Chúa nhựt Xuân Hoa cậy chồng dắt đi xuống chợ Bến Thành mua tô, mua chén, lại mua vải về may màn để treo mấy cửa buồng và treo mấy cửa sổ, vợ chồng ở với nhau như bát nước đầy không xao không dợn, vợ có làm chi coi trái ý thì chồng lấy lời ngọt dịu khuyên lơn, chồng có tiếng chi không vui lòng thì vợ cũng dùng cách ôn hòa mà dứt bẩn. Quảng Giao đi dạy học thì ở nhà vợ coi cơm nước, có rảnh thì may vá cho chồng, còn Quảng Giao đi dạy học thì thôi, chớ hễ về nhà thì cứ đọc sách hoặc coi nhựt trình, ít hay đi chơi lắm. Một hai khi nhơn ngày rảnh và trời tốt, vợ chồng dắt nhau vô vườn thú hóng mát, hoặc xuống chợ mua đồ, chớ chẳng hề khi nào thấy hai vợ chồng đi coi hát hay là đi ăn cơm trong mấy nhà hàng bao giờ.
Ban đêm ai đi ngang qua nhà Quảng Giao, nếu liếc mắt dòm thử vô cửa thì thường thấy chồng nằm trên ghế đọc sách, vợ ngồi trên ván may, chẳng hề chuyện vãn chi hết. Vợ chồng Quảng Giao ở với nhau bề ngoài coi thật lạt lẽo, chẳng hề khi nào giỡn trững, chẳng hề khi nào lả lơi, nhưng hễ bữa nào vợ nóng lạnh nhức đầu thì chồng lo mua thuốc rước thầy, săn sóc dưỡng nuôi kỹ lưỡng lắm. Còn vợ thì lo từng miếng ăn vật uống, coi từ đôi vớ cái khăn cho chồng, chẳng chịu để cho chồng phải nhọc lòng về mấy việc ấy.
Quảng Giao muốn về gần gũi mẹ, nên thường làm đơn xin đổi về Long Xuyên, mà lần nào quan trên cũng trả lời nói Long Xuyên không có khuyết thầy giáo.
Có khi anh ta nhớ đến tình xưa nghĩa cũ viết thơ gởi thăm Bác Ái, và chỉ nhà rồi mời nếu bãi trường có về thì xin ghé lại nhà đàm đạo chơi kẻo nhớ nhau. Hễ Bác Ái được thơ thì hồi âm liền, song trong thơ thì thăm chung quanh anh chị mà thôi chớ chẳng hề khi nào hỏi riêng việc Xuân Hoa, mà cũng chẳng hề hỏi thăm coi đã có con hay chưa. Lần lựa ngày lụn tháng qua. Vợ chồng Quảng Giao nấn ná ở Sài Gòn trót 4 năm, chưa xin đổi được về Long Xuyên, mà cũng chưa sanh được một đứa con nào, còn Bác Ái đã thi đậu, được cấp bằng làm thừa biện, bổ đi tùng sự tại phủ Toàn Quyền ngoài Hà Nội mà cũng chưa ghé thăm Quảng Giao lần nào. Ngày nọ Quảng Giao nghe nói quan Toàn Quyền ngoài Hà Nội vào Sài Gòn, có năm sáu thầy theo tùng sự, trong số ấy có Bác Ái nữa. Quảng Giao về nhà nói lại cho vợ nghe, thì Xuân Hoa nói rằng: “Dữ hôn! Bốn năm nay tôi không gặp mặt ảnh, phải chi ảnh ghé nhà mình để tôi thăm ảnh một chút”. Quảng Giao có lòng thương nhớ Bác Ái, trông cho gặp mặt nhau, nay lại nghe vợ ước như vậy nữa nên tính đi kiếm Bác Ái đặng mời về nhà ăn cơm nói chuyện chơi. Anh ta đi hỏi thăm mấy bữa mà không biết Bác Ái ở tại đâu, muốn vào phủ Toàn Quyền kiếm, ngặt vì lúc Bác Ái có tại văn phòng thì anh ta mắc dạy học, mà hễ dạy mãn giờ rồi thì Bác Ái đã đi mất nên kiếm không gặp được.
Chiều bữa nọ, trời trong gió mát, những người làm việc cả ngày, mãn giờ ai cũng chầm chậm đi bộ về nhà, hứng chút thanh phong. Tan học rồi Quảng Giao thấy trời tốt và lại còn sớm, nên lần bước đi xuống đường Catinat dạo chơi một hồi rồi lần qua chợ Bến Thành cũ. Anh ta thấy chệt bán trái cây tươi tốt mới mua một cân sá lỵ với một cân hồng tươi. Trả tiền rồi vừa xách hai gói trái cây đi, Quảng Giao chợt thấy Bác Ái ngồi xe kéo chạy ngang qua mặt. Quảng Giao mừng quýnh kêu lên om sòm. Bác Ái dừng xe lại, anh em bắt tay nhau mừng rỡ hết sức.
Quảng Giao vỗ vai Bác Ái, trách:
- Anh thiệt tệ quá, mấy năm nay tôi mời anh hoài, mà sao kỳ bãi trường nào anh cũng không chịu ghé nhà tôi chơi vậy.
- Xin lỗi anh, không phải là tôi quên anh em ngặt vì lần nào tôi về tới Sài Gòn thì cũng lật đật về riết dưới nhà đặng thăm cha mẹ tôi, rồi chừng khai trường hễ lên Sài Gòn thì tàu gần chạy, bởi vậy nên không rảnh đi thăm anh em được.
- Hổm nay tôi nghe anh về tôi kiếm anh dữ quá, mà không gặp. Nay may gặp anh tôi xin mời anh lên nhà tôi ăn cơm rồi nói chuyện chơi. Đi, đi với tôi, lên cho biết nhà. Nầy, vợ tôi nó nhắc nhở anh hoài, hổm nay nó cứ biểu tôi đi kiếm anh mời về nhà đặng nó thăm, kẻo bốn năm năm nay nó không gặp mặt. Đi anh. Ê xe kéo, kêu dùm một cái xe nữa.
- Xin anh đừng phiền, bữa nay tôi chưa đi được.
- Sao vậy?
- Bởi vì tôi mắc hẹn lỡ với mấy anh em, nhà anh ở đường Hàng Sao phải không?
- Phải.
- Số mấy? Tôi quên rồi!
- Số 36.
- Tôi biết nhà rồi, thôi để bữa nào rảnh rồi tôi sẽ lên thăm anh chị.
- Í? Được đâu nào! Anh phải đi với tôi bây giờ. Đi mà, lên ăn cơm nói chuyện chơi. Mấy năm nay không gặp anh, vợ chồng tôi nhắc nhở anh hoài.
- Thiệt tôi mắc hẹn lỡ với người ta rồi.
- Ối! Có hẹn với họ thì để bữa khác, bữa nay anh phải đi với tôi.
Quảng Giao nắm tay kéo riết Bác Ái lên xe, rồi anh ta cũng lên ngồi một cái, dắt nhau về nhà. Xe vừa ngừng ngay cửa anh ta kêu vợ nói rằng: “Mình a, mình! Tôi kiếm được anh Ái tôi dắt ảnh về đây nè”.
Xuân Hoa đương nằm coi truyện, nghe chồng kêu lạt đật chay ra bới đầu, miệng chúm chím cười, mắt ngó Bác Ái mà chào rằng: “Thưa anh Tư mới lại. Hổm nay tôi nghe thầy nó nói anh về tôi có lòng trông quá. Mấy năm nay anh mạnh há”. Bác Ái gật đầu đáp rằng: “Thưa tôi mạnh”, rồi day lại lấy bạc cắc trả tiền xe. Quảng Giao không cho, đưa hai gói trái cây cho vợ cầm, dành trả tiền luôn hai cái xe hết, rồi mới dắt nhau vô nhà.
Xuân Hoa lau bàn, quét ghế, mời ngồi và hỏi lăng xăng:
- Mấy năm nay lần nào thầy nó viết thơ thăm anh, tôi cũng căn dặn mời anh hễ có về Sài Gòn thì ghé nhà chơi, mà anh không có ghé lần nào hết, bộ anh phiền hai vợ chồng tôi sao vậy? À, nghe nói bây giờ anh làm Thừa Biện trên phủ Toàn Quyền phải không? Hổm nay anh về trong nầy vậy mà anh có về thăm cô dượng dưới nhà hay không?
Xuân Hoa hỏi câu nào, Bác Ái trả lời xuôi theo câu nấy, song trả lời mà chẳng hề ngó mặt Xuân Hoa.
Quảng Giao cất nón xong rồi nói với vợ:
- Nè, thôi mình coi biểu bày trẻ dọn cơm ăn, gần 7 giờ rồi, dọn đi rồi vừa ăn vừa nói chuyện cũng được mà.
Xuân Hoa nói:
- Lâu ngày mới gặp, mắc mừng nên hỏi thăm lăng xăng rồi quên lửng không nhớ ăn uống gì hết chớ.
Xuân Hoa nói rồi liền quày quã xuống nhà bếp, hối đứa ở chạy đi mua vài cặp lạp xưởng, vài trứng vịt và mua một chai rượu chát trắng với hai xu nước đá nữa. Nấu nướng xong rồi mới dọn lên bàn, Quảng Giao mời Bác Ái ngồi một bên, còn vợ chồng anh ta ngồi một bên.
Quảng Giao rót rượu mời Bác Ái uống rồi hỏi rằng:
- Sao? Mấy năm nay anh đi học ngoài Hà Nội có việc chi lạ nói nghe chơi anh.
- Có việc chi lạ đâu.
- Học một lớp với anh đó có người nào giỏi lung hay không?
- Có chớ.
- Chắc họ giỏi thì giỏi vậy chớ đời nào hơn anh được?
- Ý! Có hai ba người giỏi lắm, tôi học không lại họ.
- Anh nói chơi sao chớ? Tôi biết sức anh, làm nghề gì thì thôi tôi không dám chắc, chớ đi học thì anh dễ thua ai đâu.
- Tôi buồn nên tôi học cầm chừng, miễn thi đậu thì thôi, tôi không thèm lo như hồi ở Chasseloup vậy nữa.
- Tại sao anh buồn?
- Tại việc nhà lộn xộn nên tôi buồn quá.
- À, mà tôi nhớ hồi hai đứa còn ở trong trường anh có nói anh đi học nữa thì anh sẽ đi Tây, bằng không thì ở nhà làm ruộng rồi sao anh lại xin đi học ở Hà Nội?
- Hồi ra trường rồi tôi về nhà xin cha mẹ cho tôi đi Tây. Cha mẹ tôi không chịu, tôi tính không thèm làm thông ngôn, ký lục, để ở nhà làm ruộng. Chẳng dè ở nhà buồn quá, chịu không được, nên tôi phải xin đi Hà Nội học, ấy là bất đắc dĩ đó mà thôi chớ bụng tôi không muốn chút nào hết.
- Ờ, có lẽ anh không đắc chí nên mới học thua người ta chớ! Mà hôm thi lấy bằng tốt nghiệp đó anh đậu số mấy?
- Đậu 10 người tôi đứng số 4.
Xuân Hoa nghe nói, ngó Bác Ái cười, nói xen vô rằng:
- Anh thứ Tư mà đậu số bốn thì phải rồi.
Hai người nghe mấy lời thật thà như vậy thì cười ngất. Xuân Hoa cũng cười theo, rồi bưng dĩa cá thu để ngay trước mặt Bác Ái mà mời ăn, Bác Ái ăn vừa hết chén cơm. Xuân Hoa thò tay lấy chén sớt thêm, rồi hỏi Bác Ái rằng: “Mấy năm nay anh Tư đã có tính xe tơ kết tóc nơi nào hay chưa?”
Bác Ái nghe hỏi, ngó Xuân Hoa thấy mặc áo bà ba lụa trắng, cổ trịch, nên bày cái cổ trắng trong, mặt không dồi phấn mà nước da trắng, gò má ửng đỏ, lại đeo bông tai hột thủy xoàn chớp nhoáng nên gương mặt sáng rỡ như hoa sen trăng dọi, cườm tay tròn, ngón tay nhỏ lại dài, cầm đũa gắp đồ ăn coi thật đẹp đẽ.
Bác Ái nghe tiếng hỏi như vậy rồi thấy sắc người như vậy nữa, nên chau mày ủ mặt, mắt ngó xuống bàn đáp rằng:
- Việc vợ chồng tôi chưa tính tới.
- Sao vậy? Xưa nay anh mắc lo học nên không cưới vợ nghĩ cũng phải, bởi vì có vợ rồi thì đi học bỏ vợ ở nhà bơ vơ tôi nghiệp thân người ta. Nay anh học xong rồi, phải lo đôi bạn làm ăn chớ.
- Chuyện đó không gấp gì lắm.
- Có lẽ anh chê nước Việt Nam nầy không có con gái, nên anh không chịu cưới vợ chớ gì, phải vậy không.
Quảng Giao ngó vợ cười mà nói rằng:
- Mình không hiểu tánh anh Tư. Không phải ảnh chê nước Việt Nam mình không có con gái nào đáng làm vợ ảnh, bởi vì, con gái Việt Nam bây giờ tuy ham dồi phấn thoa son, ưa câu tôm câu cá mặc dầu, song trong đồng ruộng con nhà lễ nghĩa cũng nhiều lắm chớ. Mà cũng không phải con gái Việt Nam chê ảnh, nên ảnh đi nói vợ không được bởi vì cô với dượng nhà là bực cự phú mà ngày nay ảnh ăn học công thành danh toại rồi, con gái nào thấy ảnh lại không ưng lòng. Tôi hiểu lắm, ảnh chưa chịu cưới vợ, là vì ảnh còn đợi kiếm cho được người nào mà ảnh dọ ý đã thương ảnh rồi ảnh cũng thương trước rồi nữa, ảnh mới chịu cưới. Phải vậy hay không anh Tư? Hồi đó đến bây giờ anh chưa gặp người nào thương anh hay sao?
Bác Ái nghe nói mấy lời như khêu chuyện cũ, nên trong lòng đã buồn thầm mà lại cũng thẹn thầm. Anh ta gượng gạo cười bưng ly rượu uống, không trả lời.
Quảng Giao nói tiếp:
- Tôi đã nói với anh hoài, mình là người Việt Nam phải nói theo phong tục Việt Nam. Muốn kiếm vợ mà đợi thương nhau trước rồi sẽ đi nói sau, làm như vậy sao được. Anh nói người mình cưới vợ hễ đi coi thấp thố rồi về cậy mai đến nói nhầu như vậy thì vợ chồng không thương nhau. Anh coi hai vợ chồng tôi đây, có thương trước với nhau đâu, mà kết tóc với nhau mấy năm nay, có xích mích với nhau bao giờ đâu.
Bác Ái lắc đầu rồi ngó Xuân Hoa mà cười, chớ không nói chi hết. Xuân Hoa nói rằng: “Ý anh Tư tuy sái phong tục Việt Nam thiệt, song tôi nghĩ cũng có chỗ phải lắm chớ”.
Quảng Giao ngó vợ rồi đáp rằng:
- Cha chả! Mình cũng muốn làm theo Tây nữa sao? Không được đâu, theo ý tôi người Việt Nam ta có muốn tập làm theo người Tây, thì tập tài nghệ, tập trí thức, hay là tập việc gì nữa cũng được hết, duy gia đình phong tục của mình thì không nên đổi.
Bác Ái ngồi lặng tinh không cãi lẫy chi hết, còn Xuân Hoa thấy ý chồng như vậy cũng chẳng nghịch luận, nên Quảng Giao bỏ qua việc đó nói qua việc khác. Ăn cơm rồi Bác Ái muốn từ giã ra về song vợ chồng Quảng Giao theo cầm hoài nên phải ráng ở nói chuyện chơi tới 11 giờ khuya mới về được.
Lúc đưa ra cửa, Xuân Hoa hỏi Bác Ái:
- Từ hồi hôm đến bây giờ mà tôi quên hỏi thăm nữa chớ! Anh Tư về trong nầy ở nhà nào đâu?
- Tôi ở sau dinh Toàn Quyền.
- Anh về trong nầy rồi ở luôn hay trở ra Hà Nội nữa?
- Dưới nhà biểu tôi nhơn dịp nầy xin trở về ngạch Nam kỳ, song tôi không muốn nên ở chừng một tháng rồi tôi trở ra Bắc.
Quảng Giao tiếp nói:
- Anh ở sau dinh coi bộ bất tiện quá. Thôi anh dọn đồ ra ở đậu với tôi đây.
- Cám ơn, tôi ở trỏng cũng tiện lắm.
- Tự ý anh. Ban đêm hay là chúa nhựt anh có rảnh ra ăn cơm và nói chuyện chơi, nghe hôn anh. Anh đừng ngại gì hết, tôi với anh chớ phải ai đó sao mà ngại. Nhớ ra chơi nhé.
Bác Ái ừ rồi từ giã vợ chồng Quảng Giao lên xe kéo mà đi. Xuân Hoa trở vô nhà vừa nói với chồng rằng: “Anh đó, tôi không gặp ảnh đã bốn năm nay rồi, mà coi ảnh cũng vậy, không khác hơn hồi trước lúc nào hết”. Quảng Giao nói:
“Ảnh ốm hơn hồi trước chớ!”, rồi đóng cửa tắt đèn đi ngủ.
Từ ngày Lê Bác Ái bị uất ức vì tình, nhắm ở nhà khó khuây lảng được, nên phải ép mình đi Bắc học, anh ta thường dặn lòng đừng có nhớ đến Xuân Hoa nữa, mà anh làm lảng chừng nào trong trí lại càng nhớ chừng nấy. Đôi lần anh ta được thơ của Quảng Giao gởi thăm, anh ta ăn ngủ không được cho đến năm bảy ngày, vào ra thơ thẩn, nằm ngồi xốn xang hoài. Anh tưởng tượng trong trí có lẽ lúc nầy Quảng Giao với Xuân Hoa đang ngồi nói chuyện với nhau, người yêu vì nết, kẻ say vì tình, rồi anh ta bắt lạnh lòng, xót dạ.
Bác Ái thấy khối tình Xuân Hoa đã gây trong lòng mình dầu làm thế nào cũng khó tan rã được, mà ngày nay Xuân Hoa đã có chồng rồi, lại chồng là một người bạn thiết của mình, nếu mình còn lưu luyến tơ tưởng nữa, thì mình phải mang lỗi với anh em, bởi vậy anh ta nhứt định không chịu gặp vợ chồng Quảng Giao, thà mình đành chịu đau đớn riêng một mình, chớ không muốn để cho nhơ danh phạm nghĩa. Bởi anh ta nghĩ như vậy nên trong ba năm học, mỗi lần bãi trường, hễ về Sài Gòn thì vội vã về riết Long Xuyên, chớ không dám trì hưỡn ở kinh thành, mà chừng thi đậu rồi lại cũng xin cấp bằng ở giúp việc luôn ngoài Hà Nội đặng khỏi gặp mặt Xuân Hoa.
Tính như vậy nghĩ rất phải, mà làm được như vậy thiệt là hay. Nào dè trời đã gây cho Bác Ái một mối tình, rồi lại còn muốn cho Bác Ái phải lụy về mối tình ấy nữa, nên mới khiến cho quan trên bổ Bác Ái vào Sài Gòn.
Bác Ái sợ gặp Quảng Giao, nên đến Sài Gòn đã trót tuần mà không dám đi thăm anh em, lại cũng không muốn đi chơi. Chiều bữa nọ thấy trời tốt nên mới ngồi xe kéo tính chạy một vòng hứng gió rồi về ngủ nào dè vừa xuống tới chợ Bến Thành cũ rủi gặp Quảng Giao, từ chối hết sức mà không được, nên phải theo Quảng Giao về nhà ăn cơm. Trong lúc ăn cơm nói chuyện, Bác Ái chẳng hề dám ngó mặt Xuân Hoa, đến chừng từ giã vợ chồng Quảng Giao về, đi dọc đường Bác Ái lại nói thầm trong bụng rằng sự bất đắc dĩ mình phải đến một lần mà thôi, từ rày sắp lên mình chẳng nên trở lại đó nữa.
Đêm ấy Bác Ái về nằm thao thức ngủ không được, ban đầu xét cảnh gia đình Quảng Giao, thấy vợ chồng hòa thuận thì mừng dùm cho thân phận Xuân Hoa, rồi lần lần lại nhớ đến cườm tay, nét mặt của Xuân Hoa, thì bếp lửa tình ngày xưa đã nguội lạnh mấy năm rồi, nay coi dường như muốn nhen nhúm đặng cháy phừng lên lại. Anh ta lại nhớ mấy lời Xuân Hoa nói nhứt là nhớ Xuân Hoa hiệp ý với mình, muốn cho trai gái phải thương trước với nhau rồi sẽ cưới thì anh ta phát nghi trong lòng, không biết Xuân Hoa nói như vậy là tại vợ chồng không thuận nhau nên ngày nay ăn năn hay là tại ngày trước cô ta cũng có tình với mình mà vì mình không chịu bước tới nên mới dở dang duyên nợ. Anh ta nghĩ kỹ lại thì không lẽ Xuân Hoa ăn năn, bởi vì Quảng Giao có nói vợ chồng anh ta nào có thương trước đâu mà mấy năm nay chẳng hề xích mích, thế thì Xuân Hoa có cớ chi để phiền hà. Chắc cô nói như vậy là có ý tiếc vì ngày trước cô cũng có tình với mình nếu mình bước tới thì ngày nay cô lại còn vui vẻ hơn là gặp Quảng Giao nữa. Bác Ái nghĩ như vậy thì tức giận lắm, nhưng việc đã lỡ rồi, dầu có tiếc cũng không ích gì, nên tính làm lảng cho xong.
Mấy bữa sau Bác Ái cũng cứ dặn thầm trong trí đừng có ra nhà Quảng Giao nữa. Mà dặn thì dặn chớ trong lòng khoan khoái muốn đi hoài. Đến chúa nhật anh nghĩ mình ra nhà Quảng Giao chẳng hại gì, miễn mình đừng tính chuyện chi quấy thì thôi, nên thay đổi áo quần rồi kêu xe kéo lên đường Hàng Sao. Bác Ái bước vô, vợ chồng Quảng Giao tiếp chào vui vẻ lắm, nhứt là Xuân Hoa lăng xăng lích xích, sai trẻ chạy đi mua thuốc vấn sẵn, rồi lại biểu đi mua đồ ăn thêm mà đãi khách, ngoài mặt vui cười, trong lòng hớn hở, coi khác hơn ngày thường bội phần. Lối 4 giờ chiều Quảng Giao rủ Bác Ái đi vô vườn thú hứng mát. Bác Ái chịu đi, Quảng Giao biểu vợ thay đổi áo quần rồi ba người dắt nhau đi bộ vô vườn thú.
Vừa vô tới vườn thì thấy nam thanh nữ tú dập dều, người dắt vợ con đứng coi chim rỉa lông, kẻ cùng với bậu bạn ngồi trên băng ngắm cảnh. Xuân Hoa khoan thai đi trước, còn Quảng Giao và Bác Ái thủng thẳng theo sau: Trên đầu nhành gió đánh lá lung lay, dưới mặt đất cỏ nhuộm màu xanh mướt. Xuân Hoa lần lần đi từ bước, khi chỉ cây mà hỏi, khi ngó thú mà cười, khi đứng tựa bờ hồ mà so sắc với hoa sen, khi ngồi trong nhà mát mà suy tình cùng cảnh vật. Bác Ái đi theo, ngoài mặt tuy vui cười mà trong lòng như dao cắt, khổ là vì niềm riêng của mình thì mình biết chớ không được tỏ cùng ai. Đi chơi tới năm giờ rưỡi, mặt trời đã chen lặn, mới dắt nhau trở về. Lúc đi ngang qua một tòa nhà cao, trước cửa có xây thang để bước lên và tứ bề cửa đóng kín mít, Xuân Hoa hỏi thăm coi nhà ấy là nhà của ai. Quảng Giao đáp rằng:
- Nhà đó là nhà kín đa.
- Sao kêu là nhà kín?
- Bởi vì hễ đàn bà vào đó rồi thì người thế gian không được thấy mặt nữa.
- Đàn bà vô đó làm chi.
- Đàn bà người nào hoặc thất chí về việc vợ chồng, hoặc não nề thế cuộc, muốn đi tu đặng không biết đến việc thế gian nữa, thì họ vào đó mà ở. Hễ họ vào đó rồi thì không ra được mà cũng không ai đến thăm viếng được.
Xuân Hoa nghe nói thì chúm chím cười rồi thì nói rằng:
- Đàn bà thất chí thì chỉ có chỗ nầy để tỵ thế, còn như đàn ông thất chí không biết có chỗ nào cho họ tu hay không há?
Quảng Giao lắc đầu đáp rằng:
- Không có, đàn ông muốn đi tu thì hoặc về chùa phật, hoặc vô nhà dòng, mà trong hai cách ấy dầu tu theo cách nào người người thế gian cũng còn thấy mặt được hết.
Xuân Hoa cười rồi nói rằng:
- Té ra đàn ông chừng chán đời rồi muốn lánh thiên hạ cũng khó hơn đàn bà lắm.
Bác Ái vùng nói nhỏ một mình rằng:
- Vậy chớ người ta tự vận không được hay sao?
Xuân Hoa nghe nói liền day lại ngó Bác Ái, thấy anh ta mặt buồn xo nên hỏi rằng:
- Anh nói chi đó, anh Tư?
- Không, tôi có nói chi đâu.
Ba người dắt nhau về nhà, Quảng Giao cầm Bác Ái ở lại ăn cơm nói chuyện tới 10 giờ tối mới chịu để cho Bác Ái về.
Từ ấy về sau Bác Ái hễ nằm nhà thì dàu dàu hoài, mà dầu đi chơi chỗ nào vui cho mấy đi nữa anh ta cũng không biết hứng, duy có lên nhà Quảng Giao thì anh ta mới vui mà thôi. Anh em gần gũi nhau được vài tuần, Bác Ái dọ coi vợ chồng Quảng Giao ở với nhau tuy không dan díu, song thiệt hòa thuận lắm. Anh ta thấy vậy càng mừng dùm cho thân phận Xuân Hoa. Anh ta nghĩ rằng mình yêu mến Xuân Hoa là yêu trộm mến thầm, Xuân Hoa không biết, Quảng Giao cũng không dè, nay Xuân Hoa với Quảng Giao đã kết nghĩa trăm năm với nhau, mình chẳng nên mơ ước điều chi nữa. Song sự não nề của mình duy có mặt Xuân Hoa thì mình mới giải khuây được, vậy thì cũng nên lân la đến chơi đặng chữa cái tâm bịnh của mình lần lần, miễn là mình đừng để phạm nghĩa thì thôi, chớ tới lui chơi, đãi nhau như anh em, có chi đâu mà ngại.
Bác Ái nghĩ như vậy, mà bữa sau ra chơi Quảng Giao lại khuyên hãy xin trở về ngạch Nam Kỳ đặng gần gũi cha mẹ anh em nữa, nên Bác Ái xiêu lòng rồi làm đơn xin thuyên bổ về Nam Kỳ. Bác Ái được giấy bổ về giúp việc tại dinh quan Thượng thơ. Quảng Giao mừng rỡ hết sức, xúi mướn phố ở gần đặng anh em tới lui chơi cho tiện. Bác Ái nghe lời mướn một căn phố ở đường Legrand de la Liraye, chưng dọn hực hở. Từ ấy về sau hai người không rời nhau, đêm nào Bác Ái không tới nhà Quảng Giao thì Quảng Giao đi lại. Còn Xuân Hoa coi bộ vui vẻ hơn xưa bội phần. Hễ thấy Bác Ái tới nhà thì niềm nở hết sức, lại mỗi đêm thường sắm sẵn đồ ăn, hoặc nấu chè thưng, hoặc nấu cháo gà, đặng anh em nói chuyện chơi khuya rồi giải lao. Có khi Xuân Hoa lãnh may áo mát dùm cho Bác Ái, có khi Bác Ái ra nhà hàng mua đồ dùm cho Xuân Hoa, có khi Bác Ái đến chơi, Quảng Giao không có ở nhà, song cũng chà lết ngồi chơi giây lát, có khi Quảng Giao nằm đọc sách, để cho Bác Ái thuật chuyện Tây cho Xuân Hoa nghe.
Ba người đãi nhau tình rất nặng, nghĩa rất dầy. Tuy Bác Ái hết buồn, hết thảm trong lòng, song chẳng hề khi nào có tỏ lời chi chẳng ngay, hoặc có lập ý chi chẳng tốt.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Anh em gần nhau lại yêu nhau như vậy, ai cũng tưởng ngày càng dài nghĩa càng mặn, nào dè Quảng Giao thuở nay không chịu đi chơi, mà chừng có Bác Ái về ở gần được ba tháng rồi thì anh ta sanh tâm hay đi chơi đêm lắm. Ban đầu hai ba đêm anh ta mới đi chơi một lần, mà có đi thì chừng 11 giờ hoặc 12 giờ khuya thì về, lần lần mỗi đêm mỗi đi, có đêm cho tới hai ba giờ, nhứt là tối thứ bảy thường đi tới sáng bét. Bác Ái lại chơi hai ba lần không gặp Quảng Giao ở nhà thì buồn chí nên không muốn lại nữa. Còn Xuân Hoa thấy chồng hay bỏ nhà đi chơi thì buồn thầm, song vì sợ chồng phiền nên ban đầu cứ giả bộ làm vui không dám nói. Lần lần thấy chồng đi thường quá, sợ mê hoa nguyệt mà đánh đổ cang thường, hoặc sa đắm bạc bài mà bại suy gia sản, nên mới nhỏ to than thở dứt bẩn chồng. Thiệt, hễ Xuân Hoa lấy lời đoan chánh khuyên lơn, thì coi bộ Quảng Giao có sắc ăn năn, mà cách chừng vài bữa sau lại cũng cứ đi chơi như cũ.
Có bữa Quảng Giao dạy học 5 giờ ra đi mất cho tới sáng rồi đi dạy luôn đến trưa bữa sau mới về nhà ăn cơm, vóc mình gầy, mắt vàng ẻo. Xuân Hoa buồn rầu hết sức không lời chi can gián nữa, chỉ đêm khuya ngồi trong phòng ngó ngọn đèn tàn rồi đau lòng rơi lụy mà thôi. Cô muốn viết thơ gởi về mẹ ruột với mẹ chồng tỏ hết đoạn thảm mối sầu cho hai mẹ nghe, mà cô nghĩ hai mẹ ở nhà, người thương rể, kẻ thương con, nếu mình đem cái tin chẳng lành mà bỏ vào nhà thì hai mẹ chắc chẳng khỏi lo lắng sanh bịnh hoạn, bởi vậy cô ta dợm đến năm bảy lần mà chưa dám viết.
Đêm nọ lối 7 giờ, trăng mọc dọi hàng cây, sao sáng rỡ, ngoài đường xa mã chạy rần rần, Xuân Hoa ngồi ăn cơm một mình giọt lụy chan canh, khối sầu nghẹn cổ, ăn không ngon, nuốt không được, nên chống đũa ngó ra ngoài đường, thấy nhiều thầy dắt vợ con thủng thẳng đi chơi, chồng ngó vợ mà cười, vợ ngó chồng mà nói, cô ta nhớ phận mình tiu hiu quạnh quẽ, có chồng mà như kẻ góa chồng, thì tức tủi trong lòng chịu không nổi mới dạy đứa ở là thằng Tư, bưng mâm cơm dẹp rồi đi mời thầy Bác Ái lại đặng cô hỏi thăm.
Bác Ái nghe mời, chẳng biết có chuyện chi, nên lật đật thay áo đổi quần rồi đi riết lại. Vừa bước vô ngó thấy Xuân Hoa ngồi chòm hỗm tại cửa, mặt mày dã dượi, đầu cổ chôm bôm, thì anh ta lấy làm đau đớn trong lòng, nên dừng bước rồi muốn thối lui, dường như nhác bước vô cái cảnh bi thảm là cái cảnh dễ làm cho mình động tình rồi thì khó dằn lòng giữ tiếng cho được.
Xuân Hoa vừa ngó thấy Bác Ái liền đứng dậy chào hỏi, mời vô nhà. Bác Ái kéo ghế ngồi, tay vấn thuốc, mắt ngó ra cửa sổ. Xuân Hoa ngồi bên ván, dựa cửa buồng, tay lau nước mắt, muốn nói mà nói không ra lời. Bác Ái không lẽ ngồi lặng thinh loài, nên gượng gạo hỏi rằng:
- Anh đi chơi hoài, bữa nay cũng không về nữa sao?
- Hơn một tháng nay có đêm nào ở nhà đâu.
- Thiệt, tôi thấy ảnh ham chơi như vậy tôi cũng buồn quá. Tuy mấy tháng nay tôi thấy ảnh đi chơi hoài, không có ở nhà, nên tôi không lại, song hễ tôi gặp ảnh thì tôi thường can gián dứt bẩn ảnh luôn. Tôi biết ảnh hồi còn đi học thì tánh ảnh đúng đắn lắm, chẳng hề khi nào chịu chơi những việc quấy quá. Ai dè ngày nay ảnh lại đổi tánh như vậy.
- Thẩy cưới tôi về ăn ở với nhau đã gần năm năm nay, thẩy có chịu chơi bời như người ta đâu. Không biết tại sao mà ngày nay thẩy lại sanh tâm đổi ý như vậy. Phải tôi dè có chồng mà như vầy thì thà tôi ở một mình tôi nuôi má tôi còn vui hơn.
Xuân Hoa nói tới đó rồi ngồi khóc rấm rức. Bác Ái động lòng chịu không được, mới kiếm chuyện khác mà hỏi rằng:
- Chị kêu tôi lại đây có chuyện chi hay không?
- Anh Tư cũng biết, tôi ở đất nầy chẳng có bà con anh em chi hết, bởi vậy cho nên mấy tháng nay chồng tôi chơi bời, tôi chẳng biết cậy ai can gián dùm. Tôi muốn viết thơ cho hai má hay, mà tôi sợ làm buồn hai bà già, nên tôi không dám viết. Nay tôi nghĩ anh Tư với thầy nó thuở nay thương nhau lắm, nên tôi nới cho mời anh Tư lại đây cậy canh Tư làm ơn chịu khó khuyên lơn dùm chồng tôi, nếu như anh Tư làm thế nào chồng tôi bỏ tánh chơi bời được, thì ơn ấy dầu ngàn năm tôi cũng chẳng dám quên.
- Tôi với ảnh tình thương nhau như anh em ruột, không phải đợi có lời chị cậy tôi mới khuyên. Mấy tháng nay tôi thường dứt bẩn ảnh hoài, tại nói ảnh không nghe nên tôi không biết liệu làm sao. Mà thôi, nay chị nói vậy, để tôi ráng khuyên lơn ảnh coi ảnh có động lòng cải tà quy chánh hay không.
- Xin anh Tư rán dùm cho em, dầu khuyên được hay là không, em chẳng dám quên ơn anh đâu.
- Thôi chị đừng buồn mà sanh bịnh, để thủng thẳng tôi sẽ liệu. Tôi tưởng một ngày một tiếng, nói hoài có lẽ ảnh cũng phải xiêu lòng chớ.
Bác Ái từ giã Xuân Hoa ra về. Xuân Hoa tỏ được chút tâm sự mới lưng bớt mạch sầu, nên đêm ấy ngủ yên, ít buồn rầu hơn mấy đêm trước.
Mấy bữa sau hễ chiều Bác Ái ăn cơm rồi, thì đi chơi mà kiếm Quảng Giao. Có khi gặp tại nhà hàng có bữa gặp tại khách sạn, có lúc thấy ở chơi nhà bầu bạn, có đêm thấy nghễu nghển ngoài đường gặp chỗ nào Bác Ái cũng dùng lời ngon ngọt, lấy lẽ thiệt hơn mà gián can, có bữa Quảng Giao coi bộ ăn năn nên đi theo Bác Ái về nhà, có bữa lại coi bộ buồn rầu nên kiếm chuyện nói cho xuôi rồi giã từ đi mất.
Bác Ái can gián hết sức mà coi bộ Quảng Giao không sửa nết chút nào, cứ cà rà nơi tửu điếm, xẩn bẩn lối lầu xanh, giọt lụy của vợ đẹp không thấm đến can trường, lời khuyên của bạn hiền không nhiễm vào trí óc. Bác Ái thấy vậy càng buồn ý, lại càng thương thân phận Xuân Hoa, tiếc đóa hoa tươi sao lại để cho úa sầu, phiền người có ngọc sao không biết trau dồi cho xinh đẹp.
Đêm nọ lối 8 giờ rưỡi, Bác Ái nằm trên ghế hút thuốc, tay cầm một quyển tiểu thuyết, vừa muốn giở ra xem, bỗng thấy thẳng Tự là đứa ở của Quảng Giao, bước vào thưa rằng: "Bẩm ông, cô tôi biểu tôi lại mời ông lại nhà đặng hỏi thăm một chuyện cần kíp lắm".
Bác Ái ngồi dậy ngó tên gia dịch ấy mà hỏi rằng:
- Thầy mầy bữa nay có ở nhà không?
- Thưa không.
- Vậy chớ cô vui hay là buồn?
- Thưa buồn. Hồi chiều cô tôi ăn cơm rồi kêu xe kéo đi đâu không biết, cho đến 7 giờ rưỡi mới về, mà bộ giận lung lắm. Nãy giờ cô tôi ngồi viết giống gì dài quá không biết, rồi mới sai tôi chạy lại mời ông đây.
Bác Ái nghe nói dứt lời thở dài ra một cái rồi biểu rằng:
- Mầy về trước đi, một lát nữa tao lại đa.
Thằng Tự ra về, Bác Ái bước vô buồng thay áo đổi quần rồi đội nón đi liền. Bác Ái bước vô nhà thấy Xuân Hoa đương ngồi trên ván, mặt có sắc giận, chớ không phải buồn như trước. Bác Ái vừa kéo ghế ngồi vừa hỏi:
- Chị kêu tôi có chuyện chi vậy?
- Anh Tư ôi, thiệt tức tôi quá.
- Sao vậy?
- Mấy tháng nay tuy chồng tôi nó không nghĩ đến tôi nên nó chơi bời, song tôi cũng ráng giữ cho tròn đạo vợ, bởi vậy cho nên tôi thường hay lấy lời ngon ngọt mà khuyên lơn, chớ không dám nói một tiếng nào nặng nề. Chẳng dè chồng tôi nó không biết nghe lời phải, nên lời tôi nói cũng như nước đổ lá môn. Tôi nghĩ tôi giận, nên tôi mới tính tôi làm rầy một lần, hoặc may chồng tôi nó có tởn chăng. Hồi tối tôi kêu xe kéo tôi đi kiếm, trong bụng tôi tính hễ gặp thì tôi kéo lưng đem về, nếu mắc cở đánh tôi, thì tôi la mã tà (lính) đặng họ bắt nó cho nó biết chừng. Xe tôi chạy ngang Vĩnh Lạc khách lầu, tôi thấy chồng tôi đương ngồi ăn cơm với hai thầy nào đó không biết mà lại có hai con đĩ nữa.
- Úy sao chị biết đó là đĩ? Không biết chừng hai cô đó là vợ của hai thầy nọ chớ.
- Không, tôi biểu xe đi chậm chậm qua lại hai ba lần tôi coi kỹ lắm mà. Thứ đồ đánh chơn mày, cạo tóc con, môi thoa son, má dồi phấn, ngồi nói chuyện cười ngả nghiêng ngả ngửa đó mà vợ ai.
- Ậy, bây giờ phần nhiều người ta trang điểm lung lắm, chớ không phải u tệ như ở dưới xứ mình vậy đâu.
- Không! Tôi biết, đồ đó là đồ đĩ thiệt mà, chớ không phải người tử tế đâu. Tôi giận quá tôi muốn vô tôi đánh nó coi chồng tôi nói làm sao? Nhưng mà tôi nghĩ lại nếu tôi rầy rà chắc là chồng tôi mang xấu với anh em bạn, bởi vậy nên tôi không nỡ bước vô, mà thấy vậy rồi bỏ qua cũng ức bụng, nên tôi chạy về nãy giờ tôi viết cho chồng tôi một bức thơ đây. Anh Tư cũng như anh em ruột trong nhà nên tôi chẳng dấu diếm mà làm gì, trong thơ tôi nói gắt lắm, nếu chồng tôi còn nghĩ nghĩa vợ chồng thì được thơ nầy phải về liền rồi chừa bỏ tánh cũ đi, thì dầu mấy tháng nay ở quấy với tôi bao nhiêu tôi cũng bỏ hết, còn như chồng tôi nói rằng duyên nợ đã hết rồi, thì cũng phải tỏ cho tôi biết, đặng tôi lo phận tôi, chớ có chồng mà như kẻ góa chồng, thì cực thân tôi nhiều quá. Hồi nãy tôi tính sai sắp ở trong nhà cầm thơ xuống đưa cho chồng tôi, song tôi nghĩ đứa ở nó khờ dại, hễ trao thơ rồi thì thôi, chớ không biết nói tiếng chi cho chồng tôi tỉnh ngộ, nên tôi mới sai mời anh Tư làm ơn đem dùm bức thơ nầy cho chồng tôi, anh là người thân thiết với chồng tôi, nếu chồng tôi đọc thơ rồi anh thừa dịp nói dùm vô ít tiếng chắc chồng tôi xiêu lòng về liền. Anh Tư liệu coi đi dùm cho tôi có được hay không?
- Đi thì đi, song tôi liệu tôi đi cũng không ích gì, bởi vì mấy tháng nay tôi nói hoài ảnh cũng trơ trơ, có nhúc nhích chút nào đâu.
Bác Ái lấy bức thơ bỏ túi rồi từ giã. Xuân Hoa hối trẻ ở kêu xe kéo rồi nói với Bác Ái rằng: “Chồng tôi chắc bây giờ còn ở tại Vĩnh Lạc Khách lầu. Anh Tư có xuống đó thì gặp. Anh nói dùm dầu được hay không được cũng về ghé cho hay, nghe hôn anh Tư. Tôi ở nhà tôi thức tôi chờ đa”.
Bác Ái thấy Xuân Hoa bạc phận chừng nào, trong lòng lại càng thương trộm tiếc thầm chừng ấy. Tuy anh ta chẳng có ý trông Xuân Hoa giận chồng, dứt nghĩa cang thường rồi anh ta thừa mối tình thân bấy lâu mà chấp nối làm cho hóa ra mối tình ái, nhưng mà ngồi xe đi dọc đường nghĩ càng thêm giận Quảng Giao, người sao không biết thương lục tiếc hồng, người sao nỡ để cho vàng phai ngọc đục. Anh ta lại nhớ mấy lời Xuân Hoa nói: “Như chồng tôi nói duyên nợ đã hết rồi thì cũng phải tỏ cho tôi biết đặng tôi lo liệu thân phận tôi”. Liệu làm sao?
Xe chạy ngang nhà thờ, đồng hồ đổ chín giờ rưỡi, tiếng chuông đổ boòng boong làm cho Bác Ái tỉnh giấc chiêm bao mà nhớ tới việc nhơn gian. Anh ta nhớ mình tưởng quấy thì hổ thầm, nên giục chạy mau mau đặng cố tìm Quảng Giao trao thơ rồi an ủi. Xuống tới khách sạn không thấy ai ăn uống chi hết, duy có mấy thằng bồi đương dẹp ghế lau bàn, Bác Ái bước vô hỏi thăm thì họ nói Quảng Giao đã mướn cái phòng số 8 ở trên lầu và đương đờn ca với hai thầy và hai cô nào đó.
Bác Ái lên được nửa thang lầu, nghe trong cái phòng có tiếng đờn ca inh ỏi. Anh ta đi nhẹ nhẹ, lên tới cửa phòng thấy hai thầy mặc quần tây, áo sơ mi đương nằm trên bộ ván, một người đương vịn ống hút kê đèn cho một người hút có một cô mặc áo lụa trắng, quần lụa trắng, ngồi trên ván khảy đờn tranh, có một cô nữa, mặc áo tím quần lãnh đen đương ngồi trên ghế mà ca, còn Quảng Giao ngồi một bên chống tay dựa bàn ngó mà cười. Bác Ái đi qua rồi đi lại một lần nữa, Quảng Giao ngó thấy liền đứng dậy chạy ra hỏi rằng:
- Bữa nay tôi bắt được anh rồi. Anh cũng đi nhà ngủ nữa sao. Thôi vô đây chơi với tôi.
Quảng Giao nắm tay kéo, Bác Ái chỏi cẳng trì lại không vô, nói rằng:
- Tôi kiếm anh có chuyện riêng, chớ phải tôi chơi hay sao? Anh chịu phiền bước xê ra ngoài đặng tôi nói chuyện riêng một chút.
Quảng Giao nghe nói thì châu mày ủ mặt, buông tay Bác Ái ra, rồi hai người thủng thẳng đi lại đứng dựa cửa sổ ngó xuống đường không nói chi hết. Trong phòng hai cô cũng thôi đờn ca và nói chuyện rì rầm, chẳng biết nói gì. Bác Ái liếc coi thấy Quảng Giao có sắc buồn bèn nói nhỏ rằng: “Anh thiệt là tệ quá! Mấy tháng nay tôi vì tình anh em thường can gián anh mà sao anh không nghe lời cứ đi chơi hoài, bỏ chỉ ở nhà tiu hiu một mình tội nghiệp hết sức vậy? Chẳng dấu chi anh, hồi nãy chỉ đi kiếm chỉ thấy anh ngồi ăn uống với mấy cô ở đâu không biết, mà chỉ giận quá nên về viết thơ rồi mượn tôi cầm xuống đây cho anh”. Bác Ái thò tay vào túi lấy thơ đưa cho Quảng Giao và nói tiếp: “Anh coi thơ đi rồi về với tôi, kẻo chỉ ở nhà trông. Vợ buồn rầu như vậy mà anh không thương cho đành hay sao?”
Quảng Giao lấy bức thơ, thở dài một cái, rồi đi lại gần đèn xé ra đọc. Bác Ái đứng chống tay dựa cửa sổ ngó theo, thấy Quảng Giao vừa xem thơ vừa ứa nước mắt. Đọc thơ rồi xếp kỹ lưỡng bỏ vô túi coi bộ trong trí suy nghĩ lung lắm. Bác Ái thấy Quảng Giao đương cảm xúc, tính thừa dịp ấy nói riết vô đặng cho Quảng Giao về, nên bước lại vỗ vai mà rằng: “Đi anh. Đi về với tôi. Tội nghiệp chỉ lắm mà. Chỉ ở nhà buồn quá, mà anh nỡ vui cho đành hay sao?”
Quảng Giao day lại nhìn Bác Ái, dường như người mới tỉnh mộng, rồi cười mà nói rằng: “Ừ, thôi anh vô đây chờ tôi một chút rồi tôi về với”.
Quảng Giao liền nắm tay kéo riết Bác Ái vô phòng. Bác Ái muốn làm vừa lòng Quảng Giao nên đi theo, không dục dặc nữa. Vừa bước vô phòng Quảng Giao liền nói lớn lên rằng: “Ông nầy là Thừa Biện Ái, anh em bạn thiết của tôi. Ủa, sao lại thôi đờn ca như vậy? Cô Bảy, cô đờn đi đặng cho cô Tư cổ ca một chặp nữa nghe chơi chớ”. Hai thầy nằm hút thuốc thấy Bác Ái, lồm cồm ngồi dậy mà chào. Hai cô nọ cũng đứng dậy chào Bác Ái, rồi kẻ lo làm thuốc phiện, người lo lên dây đờn. Bác Ái kéo ghế ngồi dựa bên Quảng Giao, mùi thuốc phiện bay thơm ngát, sắc ba đào bẹo trước mắt, ngắm cảnh trông người rồi trong dạ bồi hồi, thầm nghĩ cảnh thú như vầy hèn chi xưa nay nhiều người nát cửa hư nhà không hay, giảm giá nhơ danh không tiếc. Tiếng đờn nghe rỉ rả dường như ăn thảm uống sầu, rồi lại tiếng ca nghe bi ai làm cho động tình cảm xúc nữa. Dầu người đại chí mà lạc bước vào lối nầy, thì tâm chí cũng tiêu mòn, huống chi là bực thanh niên, thấy cuộc vui chơi cũng như thiêu thân thấy ngọn đèn, thế thì làm sao khỏi cháy mày nám mặt.
Quảng Giao lấy rượu cỏ-nhắc rót rồi mời Bác Ái uống, còn hai thầy kia cứ theo mời hút thuốc hoài. Bác Ái từ chối không chịu uống mà cũng không chịu hút. Bác Ái thấy Quảng Giao lần lần càng thêm hứng chí, chớ không buồn như hồi nãy nữa thì ngó Quảng Giao mà nháy mắt, có ý thúc Quảng Giao về. Quảng Giao đã không tính tới sự về lại cứ theo mơn trớn với hai cô nọ hoài. Bác Ái thấy vậy bèn đứng dậy nắm tay Quảng Giao nói rằng: “Tôi xin lỗi với hai thầy và hai cô, anh tôi bữa nay có việc nhà cần kíp lắm, nên ở chơi không được. Vậy xin cho anh tôi kiếu, để khi khác rồi sẽ ở chơi lâu”. Quảng Giao lắc đầu nói rằng: “Không, không, tôi không có chuyện gì cần kíp hết. Hai cô cứ đờn ca cho tôi nghe đi. Tôi không về đâu”.
Bác Ái nghe nói chưng hửng liền hỏi rằng:
- Ủa, vậy chớ hồi nãy anh hứa với tôi làm sao?
- Không, tôi không về đâu.
- Anh thiệt tệ quá!
- Thôi, như anh không vui lòng ở chơi với tôi thì anh về đi.
- Tôi muốn anh về với tôi chớ.
- Tôi về không được.
- Sao vậy?
- Tại tôi về không được, tôi có biết sao đâu mà nói.
Bác Ái nghe nói, đứng chắc lưỡi lắc đầu. Quảng Giao liếc Bác Ái mà nói rằng: “Chắc anh về anh ghé nhà tôi chớ? Nầy, xin anh làm ơn nói dùm với vợ tôi rằng tôi không về được, tự ý nó muốn tính thế nào thì nó tính. Tôi về nó càng buồn, chớ ích gì đâu…Anh làm ơn nói dùm một chút nhé”.
Bác Ái nghĩ mình đã nói cạn lời mà Quảng Giao không nghe, dầu ở nữa cũng không ích gì, nên từ giã mà về một mình.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Xưa nay, người ta thường nói đàn bà hay lạt lòng mà lại hay thù vặt. Cái lý thuyết ấy nghĩ thật là đúng lắm. Ai có ý quan sát tánh của đàn bà thì cũng đều biết rằng đàn bà phần nhiều dầu gặp chồng ngang tàng thô tục, mở miệng ra thì mắng nhiếc, về đến nhà thì la rầy, coi thân phận vợ như rác như rơm, nhưng chị vợ dầu có phiền hà thì trách móc chút đỉnh thôi, chớ chẳng hề khi nào sanh lòng oán giận, nếu chồng dỗ ngọt vài tiếng thì cái lòng phiền hà sẽ tan hết rã hết, chẳng còn giận hờn chi nữa. Trong chốn gia đình dầu chồng có ở quấy với vợ đến chừng nào đi nữa, vợ cũng không câu chấp, song phải giữ một điều nầy cho toàn vẹn, là đừng có làm cho vợ sanh lòng ghen, bởi vì vợ mà ghen thì ân nghĩa bao nhiêu cũng phủi hết, rồi ái tình ngày trước nặng nề bao nhiêu thì ác cảm từ ấy càng dữ dội bấy nhiêu.
Xuân Hoa dầu chân chất thiệt thà cho mấy đi nữa, cũng là một người đàn bà, bởi vậy tánh cũng chẳng khác gì những đàn bà khác. Trót mấy trăng chồng sanh tâm phóng túng, đi chơi bỏ vợ nằm lưu vong ở nhà, tuy là phiền muộn nên có hơi giận chồng, song nếu Quảng Giao về nói một vài tiếng phôi pha, chắc cô cũng đổi lòng buồn mà làm vui lòng được. Ngặt Quảng Giao hễ về đến nhà thì buồn mà thôi, chớ không nói tiếng chi cho vui lòng vợ, mà hồi tối lại để cho vợ dòm thấy cái bạc tình của mình nữa, bởi vậy Xuân Hoa chẳng những là giận mà lại thêm thù thêm oán nữa.
Bác Ái lãnh thơ ra đi rồi, Xuân Hoa nằm ngồi không yên cứ ra ngóng vào trông, tính hễ chồng về thì tác sắc mà trách một lần cho chồng biết cái thói bạc tình của đàn ông là cái thói đàn bà ố hơn hết. Đêm khuya lần lần, ngoài đường thiên hạ cũng ít hay lai vãng. Cô ngồi trước cửa chờ hễ thấy dạng xe kéo ở xa xa thì nghi là chồng về, nên trong lòng hồi hộp, đứng dậy mà ngó, chừng xe chạy tới, thấy không phải chồng thì trở vô, mặt mày buồn xo.
Đồng hồ gõ 11 giờ. Xuân Hoa nghe xe kéo dừng ngoài cửa, ngước mặt ngó ra, thấy có một mình Bác Ái đi vô, thì cô biết chồng không chịu về, song cũng gượng mời Bác Ái ngồi rồi hỏi rằng: “Anh Tư có gặp thầy nó hay không?” Bác Ái gật đầu rồi lấy thuốc ra hút, không nói chi hết. Xuân Hoa ngồi bên ván đã buồn lại giận nên không muốn hỏi nữa. Bác Ái thủng thẳng thuật hết cử chỉ của Quảng Giao lại cho Xuân Hoa nghe, nói không sót một lời, thuật không quên một mảy.
Xuân Hoa nghe hết đầu đuôi rồi thở ra nói rằng:
- Anh Tư nghĩ đó mà coi, tôi đã nhịn nhục hết sức mà chồng tôi nó không biết nghĩ, ấy là tại nó chớ không phải tại tôi. Vậy xin anh Tư làm ơn đặt dùm tôi một lá đơn đặng tôi về Long Xuyên tôi xin để, chồng tôi nó không thương tôi nữa, tôi ở đây làm gì.
Bác Ái nghe Xuân Hoa để chồng thì biến sắc, trong lòng bối rối, nên ngồi lặng thinh, suy nghĩ một hồi rồi can rằng:
- Chị nóng giận chị tính như vậy sao phải. Đạo vợ chồng là đạo trọng, dầu ảnh có quấy thì cũng còn có cha mẹ hai bên phân xử chớ chị giận mà chị đi kiện xin để, không cho mợ Hương và bác ở bển hay, chắc hay là trách chị lắm. Mà người ngoài dòm vô họ cũng cười chị nữa. Đừng có làm như vậy không nên đâu.
Xuân Hoa đáp rằng:
- Không, nếu tôi xin để thì tôi cũng thưa trước cho hai má hay rồi tôi mới vào đơn chớ. Song tôi muốn cậy anh làm sẵn dùm cho tôi một lá đơn, đặng hễ tôi thưa rồi tôi vô đơn liền cho dễ.
Bác Ái từ chối hoài không chịu làm đơn dùm. Anh ta ngồi liếc xem thấy Xuân Hoa sắc mặt giận chớ không buồn như mấy tháng nay vậy. Anh ta biết cô đã quyết ý nên kiếm lời can hoài, mà anh ta chữa lỗi cho Quảng Giao chừng nào, Xuân Hoa lại càng giận chừng nấy. Đến 12 giờ khuya Bác Ái từ giã ra về, tuy chẳng hề trông cho Xuân Hoa kiện để Quảng Giao nhưng trong trí thầm nghĩ nếu Xuân Hoa mà dứt nghĩa cang thường rồi thì cũng chẳng thiếu chi kẻ sẵn lòng cầu chờ chấp tơ nối chỉ. Bác Ái về nhà thấy có một phong thơ để trên bàn, dòm coi con dấu thì ở Long Xuyên gởi lên, lật đật xé ra xem, mới hay ông thân đau, nên anh cả gởi thơ biểu xin phép về cho gấp. Anh ta được tin chẳng lành trong lòng bứt rứt hết sức, rạng ngày vô xin phép nghỉ một tuần lễ, rồi riết về Long Kiến thăm cha.
Còn Xuân Hoa thấy mình gởi thơ nói đã cạn lời mà chồng cũng không nghĩ, thì giận rồi lại phiền nên đêm ấy nằm trằn trọc hoài, ngủ không được, nằm suy tới nghĩ lui không biết có gì mà vợ chồng ở với nhau đã gần năm năm như bát nước đầy, không xao không dợn, mà ai khiến ai xuôi nông nỗi, dây tơ hồng muốn đứt nửa chừng, làm cho người trọng nghĩa hữu tình lại hóa ra người vô tình bạc nghĩa. Cô thầm nghĩ hay là tại mình ở quấy nên chồng mới phụ phàng, mà cô tìm hoài cũng không thấy mình quấy ở chỗ nào. Canh khuya vắng vẻ cô nhớ tới lời Bác Ái rằng: “Vợ chồng phải biết ý nhau trước, nếu chắc ý hiệp tâm đầu rồi sẽ cưới thì mới vui mà ở đời với nhau”, cô vừa muốn tiếc rằng mình không dọ trước rồi sẽ ưng Quảng Giao, song cô lại nghĩ đã gần năm năm nay mình chẳng có chút nào trách chồng, há chẳng phải là đồng tâm chí với nhau sao, ngày nay nghĩa muốn phai, tình đã lạt, ai có dè đâu mà ngờ trước được.
Xuân Hoa hễ nghĩ đến nghĩa nặng của chồng thì thương, mà hễ nhớ tới tình sơ của chồng thì giận. Bởi vậy cô buồn bực chịu không nổi, nên thức dậy đốt đèn rồi viết hai lá thơ, một bức thơ gởi cho mẹ chồng, còn một bức gởi cho mẹ ruột. Trong thơ không nói việc chi cho rõ, duy chỉ tỏ sơ rằng vợ chồng không được thuận với nhau và xin hai mẹ lên Sài Gòn chơi đặng tính dùm việc nhà cho hai trẻ.
Từ ngày Xuân Hoa cậy Bác Ái đem thơ trao cho Quảng Giao thì Quảng Giao không về nhà nữa, mà Xuân Hoa đã mỏi lòng rồi nên cũng không thèm kiếm tìm. Cách bốn ngày sau nhằm ngày thứ bảy, lối sáu giờ chiều, cơm đã dọn để trên bàn mà Xuân Hoa cứ nằm dã dượi trong mùng, không muốn đi ăn. Đứa ở nấu ăn đương lui cui sau bếp, còn cửa trước thì khép lại, duy chỉ có cửa sổ mở mà thôi. Trong nhà im lìm, Xuân Hoa đương nằm tưởng thầm có lẽ nay mai hai mẹ sẽ lên tới, bỗng nghe ở ngoài cửa có tiếng gõ cộp cộp. Xuân Hoa kêu đứa ở biểu ra ngoài coi ai, thằng Tự chạy ra ngoài mở cửa. Xuân Hoa nghe có tiếng nói chuyện nho nhỏ, rồi nghe đóng cửa lại, kế thằng Tự bước vô phòng đưa cho Xuân Hoa một bức thơ, có gắn bánh kiến đỏ bốn góc, mà nói: “Có một đứa học trò đem thơ lại, biểu phải giao tới tay cô. Tôi hỏi thơ của ai, nó nói cô xé ra coi thì biết”.
Tuy trời đã chạng vạng tối, song Xuân Hoa cầm phong thơ coi thấy rõ bao ngoài đề như vầy:
Bà PHẠM QUẢNG GIAO
Số 36, Đường Bangkok
Sài Gòn
Cô nhìn coi biết chữ chồng, ném phong thơ trên bàn thở dài, ý không muốn đọc. Thằng Tự thấy cô buồn thì chơn lui ra mà miệng nói rằng: “Cô ra ăn cơm cho rồi, kẻo đồ ăn nguội hết”. Xuân Hoa không trả lời, lại đứng dậy thò tay dặn đèn cháy lên, rồi lấy phong thơ đứng dựa đèn, xé ra xem.
Sài Gòn, ngày 14 tháng 12 năm 192…
Em ôi,
Tôi trung dõng ấy là báu nước, vợ hiền hòa vốn thiệt phước nhà. Từ ngày đôi ta kết duyên cầm sắc, qua thấy em cũng biết kính chồng biết trọng mẹ, qua thường có dạ mừng thầm, tưởng là chầy tháng lâu ngày chữ nghĩa nặng, chữ tình rồi cũng nặng.
Qua cũng biết vợ chồng ăn ở với nhau gần năm năm nay, chẳng có chút chi xích mích, nhưng mà mấy tháng nay anh Bác Ái ở gần, anh em luận sự hôn nhơn rồi qua xét cái tình của em với qua thì thiệt chữ nghĩa kết được, mà mối tình không kết được. Nói ra thì hổ thẹn với anh Bác Ái, chớ qua nghĩ lại mối tình của vợ chồng ta không thương trước mà đi cưới nhau bướng, làm cho mấy năm nay em chẳng thỏa tình đắc ý, qua ăn năn không biết chừng nào.
Em ôi, mấy tháng nay qua không nói ra, chớ qua vẫn biết hiện bây giờ đây có một người thương em hết sức mà em cũng mến hết lòng, nếu hai đàng hiệp được một nhà thì mới gọi gia đình hạnh phúc. Ngặt có qua đứng trơ trơ ở giữa, nên trai vì nghĩa không đành bước tới, còn gái vì trinh không dám lại gần, rồi kẻ ôm sầu quyết bỏ ngày xuân, người đêm thảm muốn vùi sắc nước. Qua thấy vậy nên chí dốc bắc cầu cho Ngưu - Nữ, giả ăn chơi mà xa lánh chốn gia đình để cho đôi đàng phỉ nguyện ước mơ, thà qua buồn thác cho hai đàng vui sống.
Em ôi, có lẽ em cũng biết tánh qua chẳng phải là tánh người say mê tửu sắc, bởi vì thương em, muốn cho em trọn chữ tình, nên qua phải hủy bỏ chút thân danh. Bức thơ nầy là bức thơ từ biệt nhau, vậy nên qua phải tỏ hết nỗi lòng cho em nghe, và chúc cho em chốn dương trần lai láng biển tình, nếu bữa nào em sực nhớ tới qua, thì em đừng có giận, ấy cũng đủ cho qua phỉ lòng nơi chín suối.
Nhỏ vài giọt lụy gởi vợ hiền, dầu xuống cửu tuyền anh cũng còn nhớ năm năm nghĩa nặng.
PHẠM QUẢNG GIAO
Xuân Hoa mới đọc thơ khúc ban đầu thấy mấy câu chồng nói có anh Bác Ái về ở gần, luận việc hôn nhơn rồi ăn năn, vì vợ chồng không thương trước mà cưới bướng nên có nghĩa mà chẳng có tình thì cô châu mày ủ mặt. Chừng đọc đến khúc giữa, là khúc chồng nói có người thương cô và cô cũng hữu tình với người ấy, chồng muốn cho hai đàng hiệp nhau nên mới giả kế chơi bời, thì cô biến sắc, nước mắt chảy dầm dề, màng tang mồ hôi lạnh ngắt. Đọc tới đoạn chót, thấy ý chồng quyết liều mình tự tử, cô kinh hãi la khóc om sòm. Thằng Tự ở sau bếp không hiểu việc chi, nghe khóc lật đật chạy ra hỏi: “Giống gì vậy cô?”. Xuân Hoa cứ ngồi khóc và nói rằng: “Té ra tại tôi nên chồng tôi khổ tâm mấy tháng nay! Bây giờ chồng tôi còn muốn hủy mình nữa, trời ôi, nếu chồng tôi chết thì tôi sống sao được”.
Xuân Hoa than khóc một hồi rồi mở bức thơ ra coi nữa. Coi thơ rồi lại khóc. Thằng Tự thấy tình cảnh như vậy lấy làm lạ, nên theo hỏi hoài. Xuân Hoa cứ đọc rồi khóc không trả lời. Đọc thơ đến ba lần rồi xếp bỏ vào túi và hỏi rằng:
- Hồi nãy đứa nào đưa thơ cho mầy đó?
- Phải thơ của thầy không vậy cô?
- Phải, mà đứa nào đưa cho mầy đó?
- Có một đứa học trò đem tới.
- Mầy có biết nó hay không?
- Thưa, tôi không biết.
- Bây giờ biết đi đâu mà kiếm!
- Cô muốn kiếm thầy phải hôn cô?
Xuân Hoa không trả lời, lấy khăn trắng choàng đầu rồi ra kêu xe kéo mà đi. Thằng Tự chưng hửng, không biết có việc chi, nên ái ngại trong lòng, lấy lồng bàn đậy mâm cơm lại rồi ra cửa ngồi khoanh tay chờ.
Xuân Hoa ngồi xe lên đường Mayer, ghé nhà thầy giáo Đống, là người dạy một trường với Quảng Giao, hỏi thăm coi có biết chồng mình ở đâu hay không. Thầy Đống nói hồi chiều Quảng Giao có xin phép với quan Cai trường nghỉ cho tới thứ sáu tuần sau, nói rằng ở nhà có việc. Lúc tan học thấy thầy kêu xe kéo đi, song vô ý nên không biết thầy đi đâu. Thầy Đống tưởng Xuân Hoa ghen tuông, muốn nói cho xuôi, nên kiếm lời vỗ về, khuyên Xuân Hoa về nghỉ, không đêm nay thì sáng mai Quảng Giao sẽ về, không đi đâu mà sợ.
Xuân Hoa trong lòng nóng như lửa đốt, nghe thầy Đống nói như vậy nghĩ thầm chắc là thầy không biết chồng mình ở đâu, nên từ giã ra đi, không tỏ việc gì hết.
Cô lên xe rồi biểu kéo xuống chợ Bến Thành. Người kéo xe mạnh mẽ nên chạy thật mau, nhưng cô nóng nảy quá, nên cứ thúc chạy cho mau hoài … Lúc ấy lối bảy giờ tối, cô chắc Quảng Giao đi ăn cơm ở mấy nhà hàng, nên biểu xe kéo chạy lại Lương Hữu, Lê Văn Du, Yêng Yêng, Cửu Long Giang, Quảng Hạp, Đông Pháp lữ quán mà kiếm, té ra đến chỗ nào cũng không thấy chồng mình hết thảy. Cô muốn đi đến mấy khách sạn kiếm song chừng xe ngừng trước cửa khách sạn cô bợ ngợ không biết ai mà hỏi thăm, nên tính chạy về cậy Bác Ái kiếm dùm.
Xe về ngang nhà mà Xuân Hoa không ghé, biểu chạy thẳng lại nhà Bác Ái. Xe ngừng rồi, cô dòm thấy trong nhà Bác Ái đèn đốt sáng lòa, vừa muốn bước vô, lại nhớ mấy lời chồng nói trong thơ, tuy lời nói không rõ ràng, song xét ý tứ thì đủ hiểu chồng ghen cho mình có tình riêng với Bác Ái, bởi vậy cô ngần ngại lật đật ra, rồi leo lên xe biểu chạy trở xuống Bến Thành, nước mắt chảy dầm dề, ruột gan đau từ đoạn.
Xuân Hoa ngồi trên xe thủng thẳng chạy cùng các nẻo đường thấy ai mặc đồ tây đi xa xa cũng tưởng là chồng, nên trong lòng khắp khởi, tới chừng lại gần coi lại không phải, thì càng đau đớn không xiết kể. Chạy vòng cho tới 11 giờ, mấy tiệm đóng cửa ngủ hết mà ngoài đường cũng thưa thớt ít ai đi, cô cùng thế mới trở về nhà thì thằng Tự đã đóng cửa tắt đèn mà ngủ. Xuân Hoa kêu cửa bước vô nhà, thấy mâm cơm còn đầy để đó, biểu thằng Tự dọn xuống ăn rồi dẹp đi, vì cô không đói. Cô vô buồng ngồi khóc rấm rức, nghĩ thầm rằng mình đã có chồng hơn năm năm rồi, hễ đi đâu thì đi với chồng chớ chẳng khi nào đi một mình, mà chồng mình tuy quen biết nhiều người song ai cũng ít khi lân la lui tới, duy mấy tháng nay có mình Bác Ái hay tới chơi vậy thì chồng mình nghi đây là nghi cho Bác Ái chớ chẳng phải nghi cho người nào khác. Cô lại nhớ Bác Ái hồi trước có ghẹo chọc mình, song hồi đó mình chưa xuất giá, từ ngày mình kết tóc xe tơ với Quảng Giao thì Bác Ái đi học, không gặp nhau nữa, mà Bác Ái ra làm việc quan rồi cũng chẳng có ý muốn gần gũi mình. Việc xin đổi về Sài Gòn và mướn nhà ở gần đều tại chồng mình ép uổng chớ không phải anh ta muốn như vậy. Đã vậy mà mấy tháng nay anh ta ở gần, tuy lui tới thường thường, song chẳng hề tỏ ý chi lạ, cử chỉ như vậy sao chồng mình lại nghi.
Xuân Hoa ngồi ngẫm nghĩ hoài: nhớ lại mấy tháng nay Bác Ái đến chơi thì mình thường niềm nở lắm, hay là tại mình bải buôi quá nên chồng mình nó tưởng tư tình chăng? Cô nghĩ tới đó, rồi lại nhớ Bác Ái về ở chừng gần một vài tháng thì chồng mình phát đi chơi bời, vậy thì chồng mình nghi đây chắc là nghi cho anh Bác Ái lắm. Xuân Hoa nghĩ như vậy thì xốn xang đau đớn chịu không được, nên ngồi chống tay trên ghế khóc trót giờ đồng hồ.
Cô khóc đã thèm rồi mới thò tay vào túi lấy bức thơ của chồng đọc lại, đọc một câu thì nước mắt nhỏ một giọt, càng đọc càng nát ruột gan. Tư bề vắng vẻ, bỗng nghe tiếng đồng hồ gõ ba giờ, Xuân Hoa thảm vì làm phận đàn bà mà không có hạnh, để cho chồng nghi mình mất trinh mất tiết như vậy, thì cũng chẳng nên sống nữa làm chi, mà nhứt là mình thiếu hạnh đến nỗi làm cho chồng buồn rầu rồi quyết liều thân vong mạng, thì mình lại còn phải mang lỗi với chồng nhiều hơn nữa, dầu có chết xuống cửu tuyền cũng chẳng còn mặt mũi nào dám ngó mặt chồng.
Hết lo rồi tính, hết khóc rồi buồn, canh lụn đêm tàn mà Xuân Hoa cũng chưa nhắm mắt. Trời vừa sáng Xuân Hoa kêu thằng Tự thức dậy biểu lại nhà mời Bác Ái, tính tỏ thiệt việc nhà cho Bác Ái nghe, rồi cậy Bác Ái tính dùm phương cứu chồng, bởi vì ở chốn Sài Gòn tứ cố vô thân, lúc bối rối nầy không biết ai cậy mượn. Thằng Tự đi một hồi trở về nói Bác Ái xin phép nghỉ một tuần lễ, đã đi về Long Xuyên bốn bữa rày rồi. Xuân Hoa nghe nói chau mày thở ra, ngồi lặng thinh nghĩ thầm rằng: “Tuy rủi nhưng cũng may, chồng mình đã nghi mình có tình riêng với Bác Ái, sao mình còn dám cậy Bác Ái nữa?”
Xuân Hoa đội khăn rồi kêu xe kéo chạy lên nhà thầy Đống. Cô tỏ với thầy giáo Đống rằng cô có được bức thơ của chồng than phiền việc nhà và quyết tự vận, nên cậy thầy làm ơn đi kiếm dùm. Thầy giáo Đống nghe nói thất kinh lật đật thay áo đổi quần rồi biểu Xuân Hoa về ở nhà để cho thầy đi kiếm.
Thầy Đống đi từ sớm mai cho tới 11 giờ kiếm không gặp Quảng Giao, hỏi thăm người quen cũng không ai biết địa chỉ. Thầy trở về ghé nhà Xuân Hoa thấy cô đương ngồi trên ván khóc. Thầy chắc lưỡi lắc đầu, Xuân Hoa biết đã kiếm không được, nên càng khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Thầy Đống cầm lòng không được, không nỡ ra về mới biểu Xuân Hoa đi với thầy lên bót mà cớ, đặng xin Cò sai lính đi kiếm giúp.
Xuân Hoa tỏ cho Cò hay sự chồng muốn tự vận rồi nói hình dạng áo quần của chồng cho Cò biết để tìm cho dễ. Cò biên hết lời khai rồi biểu Xuân Hoa về, hứa rằng hễ có gặp Quảng Giao ở đâu thì sai lính đến cho cô hay.
Xuân Hoa về nhà nằm khóc hoài, ăn ngủ không được cứ than thân trách phận, cứ nói rằng mình giết chồng mình mà thôi. Cô chờ hoài không thấy lính kêu. Qua ngày thứ hai, lối 10 giờ, có một tên lính đến nhà nói rằng ông Cò đòi. Xuân Hoa lật đật lấy khăn đi theo lính, chơn đi mà miệng thì hỏi:
- Kiếm được chồng tôi rồi hay sao chú?
- Không biết nữa.
- Vậy chớ ông Cò đòi tôi làm chi?
- Tôi thấy bên bót Xóm Chiếu gởi cái áo gì lên đó, rồi ông Cò biểu tôi đi đòi cô nên tôi đi đây.
- Áo của chồng tôi hay là áo của ai?
- Tôi không biết.
- Thôi đi riết đi chú, cha chả! Không biết ông Cò đã hay tin chồng tôi ở đâu hay chưa.
Xuân Hoa vừa bước vô ông Cò liền biểu thầy thông ngôn nói cho cô hay rằng: “Hồi sớm mai tên lính gác bên Xóm Chiếu thấy có một cái áo bành tô trắng bỏ dựa mé sông, phân nửa ở trên bờ, còn phân nửa nằm dưới nước. Nó xách cái áo đem lên thấy trong túi có mỗi cái bóp phơi không có bạc tiền chi hết duy có ba miếng danh thiếp trắng đề tên như vầy:
PHẠM QUẢNG GIAO
Instituteur
36, Rue Bangkok Sài Gòn
Tên lính đem về bót quận thứ nhì thì ông Cò coi bót ấy, đã có tin bót trên nầy kiếm tên đó, nên gởi lên coi có phải hay không”. Thầy thông ngôn nói dứt rồi ông Cò mới đưa cái áo với cái bóp phơi cho cô Xuân Hoa nhìn. Cô cầm cái áo run lập cập, thấy bộ nút nghi là áo chồng rồi, chừng coi tới cái bóp phơi thì chẳng còn nghi chút nào hết, nên đã vùng khóc lớn lên rằng: “Trời ôi! Nếu vậy thì chồng tôi đã nhào xuống sông chết rồi, còn gì đâu?... Bẩm ông Cò tôi lạy ông làm ơn cứu dùm chồng tôi, kẻo tội nghiệp chồng tôi lắm... Mình ôi! Mình có nghi ngờ gì thì mình nói ra, chớ sao mình lại tự vận như vậy, mình ơi! Ông ôi! Làm sao vớt chồng tôi bây giờ, ông làm ơn dùm chút, ông ôi!”
Ông Cò tuy không rõ tâm sự của Xuân Hoa, song thấy cô bi thảm như vậy ông cũng động lòng, bởi vậy ông mới kiếm lời khuyên giải, rồi thông ngôn nói lại như vầy:
- Cô đừng buồn, dầu cái áo nầy phải là của thầy đi nữa, cũng chưa đủ bằng cớ rằng thầy đã tự vận rồi, sao cô lại sợ quá như vậy!
- Thầy ơi, tôi chắc chồng tôi đã chết rồi.
- Sao cô chắc dữ vậy?
- Bởi vì chồng tôi đã nói sẽ tự vận.
- Ý! Đàn ông họ nói hơi nào mà tin. Vợ chồng tôi hễ có rầy rà với nhau thì tôi đòi tự vận hoài, mà tôi đã chết lần nào đâu?
- Chuyện thầy khác, còn chuyện chồng tôi khác, chắc chồng tôi đã chết rồi thầy ôi. Xin thầy làm ơn nói dùm ông Cò sai lính lặn vớt dùm chồng tôi, tốn hao bao nhiêu tôi chịu hết.
- Lính mắc đi gác đường, có lính đâu dư đi lặn được. Nầy cô, tôi chắc thầy muốn gạt cô nên đem bỏ cái áo nơi đó đặng cho cô sợ chơi, chớ chưa chết đâu. Cô nghĩ lại coi, nếu thầy tự vận sao thầy lại cổi áo bỏ đó làm gì, vậy chớ bận áo nhảy xuống sông không được hay sao? À, mà nếu thầy muốn bỏ một hai vật lại trên bờ, thì trước hết thầy phải bỏ cái nón lại, chớ có lý nào đội nón mà nhảy, còn cái áo lại cổi bỏ đó. Cô xét thử coi phải không?
- Thầy ôi, tôi chắc chồng tôi chết rồi không còn đâu. Nếu lính lặn dùm cho tôi không được, xin thầy làm ơn chỉ cho tôi biết tôi cậy ai bây giờ.
- Có lẽ cô qua bên Xóm Chiếu cô mướn mấy người chài lưới họ lặn cho thì được. Mà như thầy đã tự vận rồi dầu có mò được, thầy cũng đã chết rồi, mò làm chi mà gấp dữ vậy? Để vài bữa thây nổi lên chớ gì.
- Thầy nói vậy sao phải, ví dầu chồng tôi tự vận chết rồi đi nữa, tôi cũng phải kiếm cho được thây chôn cất cho ấm cúng chớ.
- Tự ý cô, chớ chết chìm hễ hai mươi bốn giờ thì nổi, khỏi mò thất công. Mà bây giờ mò cũng khó lắm, bởi vì sông Bến Nghé nước chảy mạnh quá, có biết thây đã trôi lên hay là trôi xuống mà mò.
- Chú lính có nói chú kiếm được cái áo đó tại chỗ nào hay không vậy thầy?
Thầy Thông dở thơ của ông Cò quận nhì ra coi rồi nói rằng:
- Cái áo nằm dựa mé sông, tại vàm kinh mới bên Xóm Chiếu.
Xuân Hoa bèn từ giã ông Cò với thầy Thông rồi cầm cái áo bành tô bước ra leo lên xe kéo về nhà. Cô vừa vô nhà thì kêu thằng Tự vừa khóc vừa nói rằng: “Tự ôi! thầy mày đã nhào xuống sông chết rồi còn đâu!”. Thằng Tự nghe nói bủn rủn tay chân nên cũng khóc dầm với chủ.
Hai người đang khóc bỗng thấy có một cái xe kiếng ngừng ngay trước cửa, Xuân Hoa thấy mẹ ruột với mẹ chồng trên xe đương leo xuống, cô lật đật chạy ra níu áo hai mẹ mà khóc và nói: “Chồng con đã chết má ôi”. Bà Hương chủ với bà Hương sư nghe thất sắc hỏi: “Sao mà chết? Nó đau bịnh gì? Chết hồi nào? Trời ôi!...”. Kẻ than người khóc líu nhíu với nhau, người đi đường dòm thấy ai cũng cảm động. Ba người dắt nhau vô nhà, Xuân Hoa vừa khóc vừa kể đầu đuôi tâm sự cho hai mẹ nghe, cô cũng nói luôn sự chồng nghi ngờ mình tư tình với người ta, và nghi đó chắc là nghi cho Bác Ái, chớ không dấu diếm chi hết. Bà chủ Hiệp mới nghe thì có sắc giận, song bà thấy con dâu bi ai thảm thiết và bà nghĩ nếu có ý gì riêng thì không lẽ nó nói thiệt như vậy, bởi vậy bà mới tin bụng dâu, bà mới than khóc con mà thôi, chớ không có lời oán trách dâu hết.
Hai bà với Xuân Hoa khóc một hồi rồi tính dắt nhau qua Xóm Chiếu kiếm thây Quảng Giao. Xuân Hoa biểu thằng Tự dọn cơm ra ăn sơ ba hột rồi kêu xe đi. Hai bà khóc hoài không ăn được, Xuân Hoa tuy biểu dọn ra mà cũng không chịu ăn.
Dắt nhau qua tại vàm kinh mới, Xuân Hoa mướn hai người vãi chài kiếm. Lúc hai người đương chài hai bà ngồi dựa mé sông vừa khóc vừa vái. Xuân Hoa đội khăn ngồi gần đó, mặt ngó xuống sông dường như ai cắt ruột bầm gan. Cô muốn nhào luôn xuống sông chết cho rồi, bởi vì chồng nghi mình hai lòng nên tự vận, mình còn mặt mũi nào thấy thiên hạ trên dương trần nầy nữa. Cô tính như vậy rồi vùng đứng dậy, tính nhảy phức xuống sông, chẳng dè lúc ấy hai người chài hè hụi kéo cái chài lên và nói rằng: “Cha chả! Thế khi vô chài rồi hay sao mà nặng dữ kìa”. Hai người đứng dậy mà ngó, Xuân Hoa cũng đứng ngó trân trân, té ra kéo hết cái chài lên thì là một gốc cây lớn.
Xuân Hoa còn đứng ngẩn ngơ, bà chủ Hiệp liền kêu hỏi rằng:
- Nầy con, ông Cò ổng có chỉ chắc lính được cái áo chỗ nầy hay không con?
Xuân Hoa đáp rằng:
- Thưa, ổng nói tại vàm kinh, thì là chỗ nầy chớ có vàm kinh nào nữa đâu?
Bà chủ hỏi mấy lời làm cho Xuân Hoa lảng xao ý muốn tự tử hết một hồi, đến chừng Xuân Hoa day qua ngó hai mẹ, thấy tóc bạc hoa râm gió thổi phất phơ, mẹ chồng thì lắc đầu chắc lưỡi than lầm thầm, còn mẹ ruột lấy tay che mặt mà khóc dầm dề, cô lấy làm cảm động, nên ngồi bẹp xuống đất mà khóc nữa.
Xuân Hoa than khóc một hồi rồi nghĩ thầm trong trí rằng: “Tại mình nên chồng mới chết, nếu mình nhào xuống đây là chỗ chồng chết đặng chết theo chồng, thì mình trọn tình trọn nghĩa với chồng rồi. Nhưng hai mẹ già ngồi kia, mình bỏ lại cho ai? Hai mẹ đã buồn rầu mình còn làm cho buồn rầu thêm nữa thì tội nghiệp lắm. Mà xét cho cùng lý, dầu mình có chết đi nữa cũng chưa chắc xuống cửu tuyền gặp nhau mà chồng chịu tha lỗi cho mình, bởi vì trước khi chồng mình chết đây thì đã lao tâm khổ trí trót mấy tháng trời, vậy mình cũng phải kiếm thế đày đọa cái thân mình cho nhọc nhằn một ít năm rồi mình sẽ chết, chừng ấy gặp nhau mới khỏi hổ”. Xuân Hoa nghĩ như vậy nên không tính nhào xuống sông chết nữa, song cô nói thầm rằng: “Anh ôi! Anh không rõ lòng em nên anh mới nghi, mà cũng tại em không đủ ngôn hạnh, nên anh nghi cũng phải. Nhưng mà lòng em thì em biết, em xin đất trời thần thánh chứng minh giùm cho lòng em. Anh ôi! Em chẳng biết liệu thế nào đặng làm cho anh thấy cái lòng trinh bạch của em, vậy nên em nguyện thầm với anh rằng anh chết vì em, thì em chết vì anh, mà trước em khi em chết, em cũng sẽ đày đọa cái thân em đặng bồi thường sự khổ não của anh trong mấy tháng. Xin anh chờ em, em chẳng giây phút nào quên anh đâu. Đợi em xuống rồi em sẽ mổ ruột em ra cho anh soi lòng dạ em”.
Hai người vãi chài từ trong vàm kinh cho tới sông lớn, mỗi chỗ mỗi chài, chỗ nào sâu lắm chài không tới thì lặn xuống mò, tìm đến tối nước lớn gần đầy cũng không được thây của Quảng Giao. Xuân Hoa cùng thế mới trả tiền công cho hai người chài, rồi khóc dắt hai mẹ về.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện